Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

Làng Mai Xá Chánh - Chương 4 và 5

Làng Mai Xá Chánh - Chương 4 và 5

Chương 4
Góp phần giải phóng dân tộc và xây dựng quê hương

I. Phong trào Văn Thân
Khi triều đình nhà Nguyễn càng ngày càng bị giặc Pháp can thiệp sâu vào nội chính,  bắt nhà vua phải làm theo ý định của chúng thì nhà vua và một số cận thần  tìm cách chống lại. Vua  Hàm Nghi và một số cận thần chạy ra núi Tân Sở thuộc huyện Cam Lộ, Quảng Trị, rồi hạ chiếu Cần Vương vào ngày 13/07/1885.
Nhiều nơi ở tỉnh Quảng Trị hưởng ứng và đã xuất hiện 6 vườn                                                                                đào tụ nghĩa:
1. Vườn đào Tường Vân – Triệu Phong ông Lê Thế Vĩnh phụ trách
2. Vườn đào Cam Lộ - ông Khóa Bảo phụ trách.
3. Vườn đào Linh Yên – Triệu Phong
4. Vườn đào Bồ Bản -  Triệu Phong
5. Vườn đào Bích Khê – Triệu Phong - ông Hoàng Hữu Bính phụ trách.
6. Vườn đào Mai Xá - Gio Linh do cụ Trương Quang Cung làng Mai Xá phụ trách. Cụ Cung và một số người khác hoạt động bí mật tìm cách chống Pháp..

II. “Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội” trong lòng người Mai Xá Chánh.
- Năm 1927 tổ chức “Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội”, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hoạt động mạnh mẽ lôi cuốn hàng ngàn thanh niên tham gia. Cuối năm 1927, cụ Trương Khắc Khoan được kết nạp vào Hội. Đầu năm 1928, các cụ Trương Quang Phiên, Trương Quang Côn được kết nạp.
Từ đó dân làng Mai đã có ba “hạt giống đỏ” sinh hoạt trong tổ Gio Linh và Vĩnh linh. Ngày 16/5/1929, Ban chấp hành tỉnh bộ giải tán để thành lập tổ chức Cộng sản. Nhưng về sau có kẻ làm phản, các người trong Ban chấp hành tỉnh, huyện đều bị bắt. Năm 1930, ba cụ ở làng đều bị bắt giam. Sau khi ra tù, các cụ đều tham gia hoạt động Cách mạng bí mật, trực tiếp phát động và chỉ đạo những hoạt động của thanh niên trong làng, từ đó tập hợp được lực lượng trẻ, dần dần tạo nên phong trào đấu tranh  Cách mạng ở địa phương.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm, ông Trương Quang Phiên đã làm Bí thư Đảng Đoàn cơ quan, làm Phó Chủ tịch và Chủ tịch UB KCHC tỉnh Quảng Trị nhiều năm.
Sau Cách mạng tháng 8, cụ Trương Khắc Khoan - tú tài Hán học - được cử làm Trưởng ban Tư pháp huyện Gio Linh, rồi làm Trưởng ban Tư pháp tỉnh Quảng trị. Cụ là liệt sĩ, đã hy sinh trong cuộc càn của quân Pháp vào chiến khu Ba Lòng, tháng 5/1948.
Cũng sau Cách Mạng tháng 8/1945, cụ Trương Quang Côn được cử làm Chủ nhiệm Việt Minh xã, nhưng cụ bị bệnh, từ trần vào cuối năm 1948.
III. Mai Xá Chánh chuẩn bị khởi nghĩa.
    
III.1. Thành lập Mặt trận Việt Minh
Từ phong trào bóng đá, đến phong trào văn nghệ, rồi viết truyện ngắn và phong trào đọc sách,từ  phong trào luyện tập võ nghệ, luyện tập quân sự lấy danh nghĩa là phong trào thanh niên Phan Anh… đã đi đến thành lập Mặt trận Việt Minh.
Mùa hè năm 1944, ông Lê Vụ người Long Quang, Triệu Phong là Tỉnh uỷ Quảng Trị đến gặp ba cụ (Phiên, Khoan, Côn) để phổ biến chủ trương của Đảng là phải nắm lực lượng thanh niên học sinh và nông dân tiến bộ, hình thành Mặt trận Việt Minh tại làng, thực hiện chỉ thị của Trung ương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ba cụ lập nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở làng có các ông: Tá, Táo, thiện, Kiểu, Huỳnh…tham gia. Cụ Phiên cùng ông Táo mở cửa hàng tạp hoá ở chợ Mai Xá để gây quỹ cho hưng hiệp hội (quỹ của những người hoạt động bí mật).
Tháng 7/1945, ông Trương Công Đồng làng Mai Xá diễn thuyết ở gò Làng về hoạt động của Việt Minh. Rồi bà Lê Thị Diệu Muội diễn thuyết ở đình làng và chợ Mai Xá, ông Trần Hữu Dực, bà Hoàng Thị ái thỉnh thoảng đến làng nắm phong trào và truyền đạt những chủ trương mới.
III.2.  Khởi nghĩa cướp chính quyền ở xã và huyện.
Đêm 18/8/1945, dân làng và đội tự vệ tập trung ở gò làng, do ông Trương Quang Phiên chủ trì, tổ chức cướp chính quyền xã và ra mắt Uỷ ban khởi nghĩa của làng Mai Xá.
Đêm 19/8/1945, dân Mai Xá Chánh và một số làng lân cận tập hợp tại “Lòi” làng trong đêm khuya, chuẩn bị cho việc đi cướp chính quyền ở huyện lỵ Gio Linh.
Chỉ huy quân sự là ông Tùng Lâm (tức Nguyễn Đăng Trình), người làng Vinh Quang Hạ và ông Trương Khắc Tá người làng Mai Xá, chỉ đạo chính trị Tổng An Mỹ Hạ là 3 cụ làng Mai Xá, đại diện huyện uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương huyện Gio Linh là  ông Trương Công Huỳnh, người làng  Mai Xá.
Đêm 1/9/1945 một đoàn đại biểu dân làng Mai Xá do cụ Trương Quang Côn, Chủ nhiệm Việt Minh xã dẫn đầu, có các ông Trương Khắc Hoằng, Trương Quang Tứ, Trương Công Tiêu, Trương Văn Bột và bà Thợ Di…cùng lên thị xã Quảng Trị chào mừng ngày độc lập 2/9 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ đó, tại sân đình làng Mai Xá, lá cờ đỏ sao vàng to rộng bay phấp phới trên cây dương liễu cao ngất, đứng từ xa đều nom thấy rõ ràng.
III.3. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp xâm lược
Sau Cách mạng tháng 8 chưa được vài tuần, cả nước ta phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thù trong giặc ngoài âm mưu lật đổ chính quyền Cách mạng vừa mới thành lập.
Ngày 23/9/1945, nam Bộ đã vùng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhờ có quân Anh, ấn giúp sức, Pháp đã đánh chiếm Sài Gòn và các nơi khác ở phía Nam. ở Bắc từ vĩ tuyến 16 trở ra, hàng vạn quân Tưởng Giới Thạch âm mưu “Diệt cộng”, đòi quyền trị an thuộc về chúng. Đất nước ở vào thế  “nghìn cân treo sợi tóc”. Trước ba nạn lớn: nạn đói, nạn dốt, nạn ngoại xâm. Làng Mai Xá đã có nhiều thanh niên tham gia đội quân Nam tiến như các ông Trương Công Hoành, Trương Khắc Kế….
Trong tỉnh Quảng Trị, khoảng một lữ đoàn quân Tưởng (Tàu vàng) mượn tiếng Đồng minh tước vũ khí quân Nhật đòi đóng 5 điểm trong tỉnh: Lao Bảo, Cam Lộ, Mỹ Chánh, thị xã Quảng Trị, Đông hà, nhưng ta chỉ cho đóng hai nơi: thị xã Quảng Trị và thị trấn Đông Hà.
Ngày 10/11/1945, hội nghị cán bộ toàn tỉnh họp để bàn về nhiệm vụ Cách mạng của tỉnh nhà, với khoảng 30 đại biểu từ các huyện và các ngành trong tỉnh. ở Gio Linh, đại biểu ngành công an có ông Trương Công Huỳnh, đại biểu ngành giáo giới huyện Gio Linh và Cam Lộ có ông Tô Khuyến….
Tỉnh Quảng Trị bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ tháng 10/1945. Tàn quân Pháp ẩn náu trong núi rừng Trung và Hạ Lào, được quân nhảy dù Pháp chi viện về lương thực, vũ khí, đạn dược do tướng Le Grève Coeur (Gờ reo cơ) chỉ huy từ phía Lào sang tiến ra Đường 9, âm mưu chiếm giữ hành lang Sà Vằn – Lao Bảo - Đông Hà - Huế - Đà Nẵng, hòng chia cắt Việt Nam thành hai.
Trước tình thế đó, tỉnh uỷ và UBND Cách mạng tỉnh đã điều một đơn vị Vệ quốc đoàn do ông Tùng Lâm chỉ huy tiến lên Đường 9 tước vũ khí quân Nhật rồi chặn đánh quân Pháp, không cho quân Pháp tiến sâu vào nội địa Quảng Trị. Làng Mai Xá đã có nhiều thanh niên tham gia đội tự vệ cảm tử lên Đường 9 giết giặc.
Xã Linh Hưng gồm các làng: Mai Xá Chánh, Mai Xá Thị, Vinh Quang Hạ, Vinh Quang Thượng, Xuân Thành đã kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ “Kháng chiến, kiến quốc”  của Trung ương giao phó.
Chính quyền Cách mạng như chiếc đũa thần, ngay từ buổi đầu đã xoá bỏ được các hủ tục như làng xóm, họ hàng xúc xiểm nhau, không còn cảnh ăn mày ăn xin, và ban đêm nhà để cửa suốt đêm mà không sợ mất cắp.
Mặt trận Việt Minh  được mở rộng. Ông Trương Quang Côn làm Chủ nhiệm, do ông Côn bị bệnh xin nghỉ, khi lập Mặt trận Liên Việt, cụ Chánh Chài (họ Trương Quang) lên thay, sau đó là ông Trương Quang Phỉ đảm nhận, 1947 ông Trương Quang Khun làm chủ nhiệm Việt Minh.
UBND Cách mạng xã do ông Bùi Thuý làm Chủ tịch lâm thời, khi bầu cử Hội đồng nhân dân xã ông được bầu làm Chủ tịch chính thức, sau đó ông Trương Khắc  Hoằng thay, và khi vỡ  mặt trận Đường 9, ông Bùi Thản thay.
Chính quyền Cách mạng xã thi hành một loạt chính sách, đáng nhớ là việc chia lại công điền công thổ cho mọi người dân trong làng Mai Xá khiến nhân dân rất phấn khởi, nhà nhà thực hiện “ hũ gạo cứu đói”, “hũ gạo nuôi quân”, rồi các lớp bình dân học vụ được mở khắp xã, không thành lớp thì năm ba người học tại một gia đình…Học chữ trở thành phong trào quần chúng sâu, rộng.
Năm 1946 tỉnh tổ chức thi học sinh giỏi bình dân học vụ, chị Trương Thị Vấn làng Mai Xá thi đỗ nhất huyện, gửi bài thi về tỉnh chấm đỗ loại ưu “ Văn hay chữ tốt”.
Đặc biệt có việc tổ chức “tuần lễ vàng”, kêu gọi mọi người dân ủng hộ lúa, gạo, vàng... - ông Trương Văn Táo làm thơ động viên việc quyên góp như sau:
“Ai có kiềng vàng đừng đeo mà nặng cổ
Ai có bông tai đừng đeo mà nặng lỗ tai
Muốn cho nước có tương lai, đem vàng
đổi súng, để có ngày mai huy hoàng[1]
Nhiều người đã tích cực hưởng ứng nên “tuần lễ vàng” thu được kết quả tốt.
Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 6/1/1946 là một sự kiện lịch sử về chính trị và văn hoá của quê hương. Trước ngày bầu cử, Mặt trận Việt  Minh tổ chức cuộc mít tinh ở gò làng Mai, huy động hàng nghìn người trong xã đến dự, ông Trương Quang Phiên thay mặt cho cấp trên về tuyên truyền giải thích ý nghĩa mục đích của cuộc bầu cử Quốc hội và giới thiệu người của tỉnh nhà ra ứng cử. Ba vị: Trần Quỳ, Đặng  Thí, Lê Thế Hiếu là ba nhà Cách mạng, có công lớn trong tỉnh được giới thiệu. Ông Trương Quang Phiên giới thiệu rất tỷ mỉ về từng người. Sau cuộc mít tinh, nhân dân làng Mai Xá và toàn xã Linh Hưng rất hào hứng, coi nhiệm vụ đi bầu cử đại biểu Quốc hội là nghĩa  vụ thiêng liêng của mọi người. Có một việc khó là lúc đó vẫn còn gần 80% dân mù chữ thì làm thế nào mà viết được lá phiếu, Ban tổ chức bầu cử tổ chức một đêm “diễn kịch đi bỏ phiếu” và mời bà con ra sân đình xem. Giữa sân đình đặt ba bộ bàn ghế, một bàn cho những người biết chữ, một bàn cho những người chưa biết chữ nhờ người viết giúp, một bàn để ba cái hộp con đựng ba thứ đậu: đen, trắng, xanh, với quy định mỗi thứ đậu tương ứng với tên của một ứng cử viên, ba bàn cử 3 người thư ký ngồi sẵn.
Nhờ thế, dân làng ai chưa biết chữ thì phải cố học thuộc tên của ba ứng cử: Quỳ, Thí, Hiếu…để khi bầu cử khỏi phải nhờ người khác giúp.
Trước và trong ngày bầu cử, ông Tạ Kiềng là nhân viên cổ động của Uỷ ban, đánh mõ đi rao khắp làng:
Cốc cốc cốc!!!
Xóm dưới làng trên
Đất nước đầu tiên
Đi bầu Quốc hội
Làng trên xóm dưới
Lẳng lặng mà nghe
Ngày mai, mồng 6 tháng giêng
Cấm cào chắt chắt
Cấm bắt cá cạn
Cấm mần mạn ngoài đồng
Chợ búa đừng đông
Hội đồng bỏ phiếu…
Cốc, cốc, cốc !!!
Cử tri của làng đi bỏ phiếu rất đông
Đội kịch làng Mai tiếp tục dựng các vở mới biểu diễn phục vụ nhân dân trong xã và huyện.
Đội Thiếu niên cứu quốc, đội Nhi đồng cứu vong ra tờ báo tường “Tiền phong” viết tay, báo trình bày đẹp, có nhiều bài hay, do ông Trương Công Ngoãn và Bùi Thế Tâm phụ trách.
Tết Trung thu lần đầu tiên được tổ chức ở sân đình, thu hút trẻ em trong làng ra dự và tham gia ca, hát, nhảy múa rất vui và sôi nổi. ông Trương quang Ngô mở phòng đọc báo tại cửa hàng của ông Trương Văn Táo ở chợ làng Mai, thu hút nhiều người đến đọc. Ngoài gò làng có quay “Đèn chiếu” giới thiệu cảnh đẹp đất nước Việt Nam do ông Tạ Khái điều khiển, thanh thiếu niên làng đến xem rất đông.
Chòi thông tin của xã dựng trên hai cây dương liễu cao ngất ở sân đình, tiếng sáo du dương của ông Trương Công Quyền, tiếng hát “Suối mơ” của ông Tô Khuyến, tiếng hát “Đoàn quân một lần ra đi” của ông Trương Công Tiêu, “Dòng sông hát”   của chị Tân Nhân…đã làm cho dân làng lắng nghe một cách chăm chú và thoải mái.
IV. Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp
IV.1. Từ tháng 1/1946 đến tháng 6/1948
Tháng 1 năm 1946, mặt trận Đường 9 bi? vỡ. Quân Pháp từ Lào kéo sang càn quét hầu hết các huyện Hương Hoá, Cam Lộ, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng. Chúng đóng đồn ở Lao Bảo, thị trấn cam Lộ, Đông Hà, thị trấn Gio Linh,  Nhỉ Hạ, Quán Ngang, Cửa Việt…
Đầu tháng 3 năm 1947, quân Pháp từ Đông Hà, chợ Cầu, Cửa Việt… dùng cả tàu chiến mở cuộc càn quét lớn vào khu vực huyện Gio Linh. Dân làng Mai tản cư triệt để, kẻ sang Triệu Phong, người xuống chợ Hôm, Bác Vọng, Duy Phiên… Sau cuộc càn quét của giặc, nhân dân trở về an toàn.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, các bộ máy của xã, thôn hoạt động trở lại bình thường, đội tự vệ vẫn luyện tập, bổ sung thêm quân. Làng Mai Xá theo lệnh động viên của cấp trên, tổ chức đợt nhập ngũ quy mô lớn: tháng 12/1947 có 27 người vào Vệ quốc đoàn, đa số được phân về các  đại đội, tiểu đoàn của Trung đoàn 95 [2].
Số người này đều tham gia chiến đấu dũng cảm. Nhiều người đã hy sinh, đa số chết nơi trận mạc, được ghi vào danh sách liệt sĩ của làng. Số còn lại nay sống rải rác khắp các miền của đất nước, chỉ có 3 người về quê sinh sống. Vì chiến tranh liên miên nên lập gia đình xa quê, đa số sống ở quê vợ.
Từ khi vỡ mặt trận Đường 9, làng Mai bị giặc Pháp để ý vì có phong trào chống Pháp mạnh, từ người già đến người trẻ, nhất là thanh niên đều ủng hộ Cách mạng. Người khoẻ đi bộ đội, trẻ con làm liên lạc, lớp trung niên và người già thì hăng hái sản xuất để tăng thêm của cải lúa gạo, ủng hộ bộ đội, hoặc tham gia dân công, phá đường ngăn giặc…
Đồn giặc ở Cửa Việt, cách làng trên 5 km. Sông hiếu và sông Thạch Hãn là đường thuỷ huyết mạch của giặc từ Đông hà, thị xã Quảng Trị về Cửa Việt và ngược lại, vì thế ca nô, tàu chiến của chúng qua lại luôn.
Đồn Nhỉ Hạ khét tiếng gian ác. Bọn lính lùng sục, bắt bớ, tra khảo, bắn giết không thương tiếc. Có tháng ngày nào chúng cũng về làng Mai giết người cướp của…
Thiệt hại đầu tiên về người là ngày 5 tháng 3 năm 1947, giặc Pháp tổ chức cuộc vây ráp lớn, chúng bắt người từ nhiều làng về tạm giam ở đình chợ Hôm,  tra khảo rồi bắn chết rất nhiều người, trong đó có 3 anh em ruột là: Trương Hữu Mua, Trương Hữu Lít và Trương Hữu Thái của làng Mai. Ba anh em là người lương thiện, sáng dậy đang dắt trâu xuống cánh đồng “Kênh” để cày bừa gieo lúa thì bị giặc bắt giải đi
Đây là vụ khủng bố đầu tiên của giặc Pháp hòng dập tắt phong trào kháng chiến của dân làng, nhưng chúng nhầm to, chúng càng khủng bố thì dân làng Mai càng đoàn kết, càng đấu tranh mạnh hơn.
Ngày 1 tháng 8 năm 1947, bọn giặc ở đồn Nhỉ Hạ theo đường phía đông sông Đào, đến bến đò Kênh chuẩn bị qua đò để lên làng lùng sục. Trung đội tự vệ do các ông Trương Văn Tựu và Trương Khắc Hưng chỉ huy đã phân công 3 ông, trong đó có ông Trương Công Hám và ông Thỏn gài lựu đạn dưới đò ngang để đánh địch. Bọn lính bắt một số người đẩy đò xuống sông. Quả lựu đạn vì để đã lâu nên không nổ. Bọn giặc giận giữ, điên cuồng vào làng Mai Xá Chánh khủng bố trắng trợn. Đầu tiên là vào nhà ông Trương Hữu Tạo, ông đang ngồi với mấy người cháu, chúng gọi ông đứng dậy rồi lập tức bắn mấy phát vào ngực, ông phó Tạo chết ngay tại chỗ, rồi chúng tiếp tục đi sâu vào làng, bắn thêm các ông Lê Đỉnh, Trương Hữu Trị, Bùi Tiệm, Trương Hữu Hiến. Các ông bị giặc bắn đều có con em đang làm cán bộ thôn, xã hoặc tham gia du kích. Sau trận lùng, chúng bắn tin có thằng Tây điên đi theo đã bắn chết nhiều người. Chẳng qua là để lừa dân mà thôi, chứ nếu điên thì nó đã bắn cả nhà, ở đây sao chúng chọn người từng nhà mà bắn, mà chỉ bắn người lớn, những người có liên quan đến chống Pháp, người điên ai cho vào quân ngũ[3]
Một tối cuối hè năm 1947, Uỷ ban kháng chiến họp cán bộ chủ chốt của xã ở đình làng Mai để bàn việc chiến đấu và sản xuất, chống càn. Trung đội tự vệ được phân làm 3 tổ phục kích 3 nơi: bến đò Kênh, nhà Liễu và Quai Mọ, đó là 3 con đường giặc có thể vào làng càn quét. Nhiệm vụ 3 tổ là canh gác, đánh giặc, báo động cho Uỷ ban kháng chiến biết để giải tán cuộc họp. Khoảng 20h, mọi người ăn cơm xong còn đang xay lúa, giã gạo…. thì bỗng ở phía quai Mọ có một tiếng nổ long trời, rồi tiếp sau nhiều loạt súng trường và súng máy thay nhau nổ.
Sớm ra mới biết tin là tối qua, tổ du kích đã phục kích bọn Tây từ Nhỉ Hạ kéo vào làng. Ông Trương Công Hám đã nhằm vào giữa đội ngũ ném quả bom bay, bom nổ làm chết và bị thương một số thằng, vì thế chúng phải tháo lui không vào làng nữa.
Mặc dù giặc càn quét liên tục nhưng dân làng Mai không chùn bước. Trung đội tự vệ luôn luyện tập và sẵn sàng phục kích bọn giặc. Một hôm, trung đội du kích đóng quân ở xóm đồng Sau (ở nhà ông Kính và ông Đạo). Phía sau nhà bao bọc bởi nhiều bụi tre già như bức thành vững chắc. Đội tự vệ vẫn cho người canh gác cẩn thận. Nhưng không may là du kích gác chỉ chú ý nhiều đến phía xóm trên, không chú ý phía làng Mai Xá Thị. Giặc đã đi từ Nhỉ Hạ vào Mai Thị, rồi từ phía mai thị dọc theo đường Bạn tấn công bất ngờ đội tự vệ. Vì lực lượng không cân sức, ta chỉ có lựu đạn, vài khẩu súng trường còn giặc thì cả trung đội được trang bị vũ khí đầy đủ, bên ta bị động nên phải rút chạy, nhưng hàng tre lại như luỹ chắn, khiến cho đội tự vệ khó thoát ra nhanh  được, vì thế bị tổn thất nặng, nhiều người bị thương. Ông Trương Công Tự – chính trị viên vừa chạy vừa bắn trả, nhưng lực lượng quá mỏng, ông chạy được hơn 1 km đến cánh đồng không cây cối thì bị chúng bắn gãy chân và một viên đạn khác vào ngực nên chết ngay gần nhà ông Lê Lự.
Dân làng Mai rất căm ghét bọn lính gian ác khét tiếng đóng ở làng Nhỉ Hạ. Chúng bắt người vô tội khắp các vùng về tra tấn, bắn giết, thủ tiêu.
Làng Mai đã có nhiều người bỏ xác ở đó. Không chỉ có ông Bùi Cao một tình báo gan dạ, thông minh không may bị chúng bắt, tra tấn rồi thủ tiêu mà ông Trương Công Ngô (con ông Cửu Đại) đang cày ở cánh đồng Sau, cũng bị chúng bắt về giam và bắn chết, rồi ông Trương Hữu Que (cha ông Sáo) là người nông dân chất phác, hiền lành, chăm lo làm ruộng, cũng bị chúng bắt về Nhỉ Hạ, tra tấn ông rất dã man. Chúng trói cả hai chân, hai tay để lâu máu tụ sưng tấy, sau bị hoại thư. Khi chúng thả tù, gia đình phải đến khiêng ông về. Làng nước ai nhìn thấy cũng đau quằn quại, thương xót ông và căm thù bọn giặc, về nhà được một thời gian thì ông mất.
IV.2. Từ tháng 6/1948 đến cuối năm 1954
Tháng 6/1948, quân giặc về đóng đồn trong thôn, mấy tháng đầu chỉ có bọn bảo an người Việt. Chúng đóng tại nhà ông Trương Công Hy. Nhà này có khu đất cao ráo, nhà xây tường gạch, nhiều gian, có vườn rộng. Bọn giặc bắt dân làng đào hào, đắp luỹ, rào đồn bằng tre và dây thép gai.  Đồn giặc phía Đông giáp nhà Cửu Phú…, phía Tây giáp nhà thầy Nhàn, phía nam giáp nhà Cửu Diêu, phía bắc giáp nhà Xạ Lạn.
Bon giặc chọn làng Mai Xá để đóng đồn nhằm mấy mục đích chính:
- Mai Xá là trung tâm đồng bằng của huyện Gio Linh và Triệu Phong, có đường giao thông thủy bộ thuận tiện.
- Mai Xá là vùng đất Cách mạng, phong trào chống Pháp lên cao.
- Mai Xá là làng giàu nhất, đông dân nhất của huyện Gio Linh.
Đóng đồn ở Mai Xá là cắt được nguồn tiếp tế lương thực, nguồn bổ sung cán bộ, bộ đội cho tiền tuyến, cán bộ cho tỉnh, huyện. Dập tắt ý chí chiến đấu của Mai Xá thì dập tắt được phong trào chống Pháp của huyện Gio Linh.
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, của Uỷ ban kháng chiến xã Linh Hưng, dân làng đã tẩy chay việc giặc đóng đồn ở làng bằng cách ban ngày cho thanh niên lánh sang các làng bên, không đi phu làm đồn cho giặc, chúng phải bắt các cụ già đi làm, và đưa phu, lính từ các đồn khác về xây đồn. Vì thế, việc xây đồn kéo dài hàng tháng mới xong. Xây đồn xong, chúng lập chính quyền tay sai: cử lý trưởng, hương mục để đàn áp, thu thuế, bắt người đi lính…., song chính quyền do chúng lập nên cũng chỉ hoạt dộng “ấm ớ hội tề”, ban ngày giả đò làm cho chúng nhưng ban đêm thì lại phục vụ cho Cách mạng.
Bọn lính trong đồn chỉ hoạt động ban ngày. Chúng ra khỏi đồn không xa, khi nào muốn lùng sục lớn thì phải có lính ở các đồn Nhỉ Hạ, Chợ Cầu… phối hợp.
Ban đêm chúng “co vòi” trong đồn, vì tối nào du kích, cán bộ cũng về hoạt động trong làng. ở cửa đồn, du kích ta thường gài mìn hay phục kích, nếu giặc ra khỏi đồn thì bị mìn nổ hoặc du kích bắn tỉa. Vì thế ban đêm giặc không ra khỏi đồn, quyền chủ động thuộc về cán bộ, du kích của làng.
Những ngày đầu giặc về đóng trong làng, anh em thanh niên và trung niên ban ngày đi sơ tán hết, ban đêm lại trở về làng hoạt động với dân. Học sinh thiếu niên do còn nhỏ, chưa phải diện quản thúc, bắt đi lính, nên Đội thiếu niên dễ hoạt động, cả ban đêm lẫn ban ngày. Các ông Bùi Hữu Dực (Thế Tâm), Trương Hữu Dược (Dinh) là Thanh niên cứu quốc phụ trách, chỉ đạo hoạt động của Đội thiếu niên. Nội dung hoạt động là làm tình báo để nắm quy luật hoạt động của binh lính, tình hình quân lính về số lượng, quê ở vùng nào, cách bố trí hầm hào, chỗ ở, chỗ để kho vũ khí, nhà giam, cách canh phòng của giặc, hàng rào của đồn có mấy lớp, cách đặt mìn, ụ súng ra sao, để báo cáo với du kích. Đội thiếu niên còn nhận nhiệm vụ rải truyền đơn ở nơi đông người, gần đồn cho lính mới đọc được. Không chỉ thông minh, mà còn gan dạ mới làm được những việc này, dù lúc này chúng chưa chú ý đến việc làm của trẻ con. Trường học của làng bị đóng cửa, nên đa số học sinh đi chăn trâu, chăn bò. Mùa hè thường rủ nhau cho trâu bò sang cánh đồng Soi ăn cỏ. Trâu bò phải đi qua đình làng, chợ, đến sông Hiếu mới qua được cánh đồng.
Giặc Pháp và lính nguỵ ban ngày hoạt động táo tợn, chúng bắt người cướp của ức hiếp dân làng, trả thù nhiều gia đình có người tham gia kháng chiến. Chúng bắt thanh niên đi lính, bắt đóng thuế khiến người dân lúc đầu có hoang mang lo sợ. Thế là cấp trên đưa ra chủ trương phải mở đợt tuyên truyền trong dân, làm cho dân tin vào Cách mạng, tin vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Mở đầu là tổ chức rải truyền đơn. Đội thiếu niên làng được phân công nhiệm vụ này. Các ông phụ trách tối về làng họp với Đội thiếu nhi giao trách nhiệm, phân công và vạch kế hoạch tỷ mỷ. Đội chăn trâu bò phân công nhau thật cụ thể. Tạ Lan nhận nhiệm vụ dán truyền đơn ở đình và rải ở chợ, các bạn khác đi trước và sau cảnh giác, thăm dò tình hình. Lan  theo các đàn trâu bò rồi ghé vào cổng đình làng. Sắp sửa đến đình thì tách khỏi đàn trâu bò nhanh  như sóc để dán truyền đơn vào cổng đình, rồi rải ra chợ. Làm nhiệm vụ xong, Lan lại nhập vào hội chăn trâu, bò đến sau và cả bọn leo lên lưng trâu, cho trâu lội qua sông một cách an toàn.
Khoảng 8h30’ chợ làng đông người, dân làng đã thấy truyền đơn dán ở cổng đình, khắp chợ, mọi người nửa mừng, nửa lo. Cả chợ huyên náo lên, có người bỏ về, nhưng nhiều người trấn tĩnh lại, họ mua bán bình thường. Bọn lính đồn nghe tin, cho quân lính bao vây chợ và lục soát truy cứu, nhưng vô ích, làm sao mà chúng biết được những chú bé gan dạ làng Mai làm chuyện đó.
Qua các lớp dạy bình dân học vụ ban đêm, thầy giáo cũng tuyên truyền chính sách của Đảng, Chính phủ một cách khéo léo. Vì thế khi giặc đóng đồn trong thôn, cán bộ bình dân học vụ vẫn tìm cách mở các lớp học vào ban đêm. Một lớp học không đông học sinh lắm, chỉ độ 7 – 8 người. Xóm trên, xóm dưới... đều có lớp. Trong lớp có em còn trẻ, nhưng cũng có nhiều người tuổi đã cao – bốn, năm mươi tuổi. ở lớp học chữ là chủ yếu, học để biết đọc, biết viết, biết tính toán. 
Cũng vì làng Mai là đất học, nên sau Cách mạng tháng Tám, phong trào học phổ thông, bình dân học vụ cũng được nâng cao. những đêm trăng sáng hoặc các tối mưa to, gió lớn, mọi người đều đến lớp đầy đủ, học rất tiến bộ. Lớp học cũng là nơi tuyên truyền chính sách, phổ biến những việc làm của thôn, của đội tự vệ, phổ biến kiến thức sản xuất, cách đánh giặc, cách binh vận... Tóm lại, ở lớp học bình dân học vụ là nơi tập hợp dân, là nơi bàn việc, là nơi ổn định tư tưởng cho dân nhanh  và hiệu quả nhất. Nhờ có học tập nên những cô thôn nữ, những chàng thanh niên trai trẻ làng Mai đã trở thành những người lính Vệ quốc đoàn tài ba, gan dạ, những cô cậu du kích dũng cảm làm cho quân thù khiếp sợ.
Để uy hiếp tinh thần bọn hương vệ, phải dùng binh vận để chia rẽ bọn địch đóng trong đồn, ngoài việc bao vây về ban đêm, Uỷ ban kháng chiến tổ chức các cuộc tuyên truyền vào đồn địch, do Ban tuyên truyền thông tin của xã phối hợp với trung đội tự vệ do các ông Bình Tựu và Trương Khắc Hưng chỉ huy (xã đội trưởng và xã đội phó).
Vào lúc hoàng hôn, một số dân làng được giao việc quan sát bọn địch, xem chúng có phục kích ngoài đồn hay không, tình hình trong đồn thế nào, rồi báo cho đội tự vệ vào làng. Từ Đò Kênh, các tiểu đội tự vệ đã sẵn sàng vũ khí đi theo các bờ tre để tiến sát phía Đông đồn giặc. Từ cửa Lòi, một tiểu đội men theo đường kiệt rồi vượt qua đường, tiến sát nhà ông Hịm, Cửu Đỉnh bao vây đồn về phía Tây – Bắc. Đội du kích  chiếm lĩnh các vị trí quan trọng bao vây đồn địch, khi có lệnh của đội tuyên truyền thì 5 – 6 người chia ra làm 2 cụm. Trưởng ban tuyên truyền Trương Hữu Tần  và ông Trương Khắc Trại làm nhiệm vụ đọc bản tin. Tổ tuyên truyền còn phải đánh lạc hướng lính đồn, để không bị chúng bắn súng tiêu diệt. Đội tuyên truyền bắc loa lên cây cao, mắc dây loa xa mươi mét. Người nói phải ẩn vào bức tường cao, hoặc nấp dưới bờ ao.
Tiếng loa vang đều, khi thì đọc bản tin, khi đọc bản cáo trạng đối với bọn lính, khi lại hát cải lương, ca vọng cổ, hát các bài ca Cách mạng.
Những đêm có đội tuyên truyền về, không khí làng Mai nhộn nhịp hẳn lên, ai  cũng lắng tai nghe, ai cũng muốn nhìn thấy những đứa con của mình đang thực hiện nhiệm vụ một cách thông minh và dũng cảm. Mỗi lần có tiếng loa phóng thanh cất lên là quân thù khiếp sợ, khiến chúng chia rẽ nội bộ, mất lòng tin. Mỗi lần tiếng loa vang lên cũng là một lần củng cố thêm lòng tin của dân làng, đội tự vệ, làm cho mọi người đồng tâm hiệp lực hơn, bởi lẽ biết nếu có hy sinh là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và quê hương.
Mặc dầu ban đêm làng Mai chủ động bao vây đồn giặc, họp dân, dạy bình dân học vụ, bàn cách chiến đấu, sản xuất, bảo vệ hoa màu, tài sản của dân nhưng ban ngày thì bọn giặc vẫn còn hung hăng, chúng cho quân lùng bắt thanh niên đi lính, bắt số trung niên đến rào đồn, đào giao thông hào, và vẫn cho quân đi các xóm rình bắt người, cướp của. Các buổi chợ, bọn lính thường ra cướp của, trêu gái và rình bắt cán bộ.
Đội tự vệ cho người trinh sát thật tỉ mỉ một hai tuần... để nắm được sự hoạt động của bọn lính đồn khi ra chợ như chúng thường có mấy thằng, đi những đường nào, hay tập trung các quán nào,... Sau khi nắm được tình hình, xã đội trưởng và xã đội phó vạch kế hoạch tác chiến cụ thể. Nếu đánh ở chợ là đánh ban ngày thì rất nguy hiểm, nếu bị lộ thì thương vong cao, làm mất lòng dân. Đội tự vệ lên phương án tối ưu, cử một số nữ du kích trà trộn ở chợ, trực tiếp đánh bọn dân vệ ở chợ. Số nam giới chia thành 2 tổ, một tổ có hoả lực mạnh phục kích tại nhà Liễu, phía trên Dinh Ông – vùng này cây cối tốt, có nhiều mồ mả nên ẩn nấp tốt, phía bờ sông là Hà Côộc cây cối dày đặc, bùn lầy khó đi, rất tiện lợi cho du kích hoạt động; tổ còn lại phục kích dọc đường Kiệt, để hỗ trợ cho du kích khi rút lui.
9h sáng bọn dân vệ đã ra chợ. Theo thường lệ, một số vào quán ăn nhậu, uống rượu, một nhóm đi chọc ghẹo con gái. Các nữ du kích liền tấn công bất ngờ khiến cho mấy thằng lính bị thương, số còn lại chạy về đồn. Nhóm nữ du kích rút chạy về phía nhà Liễu, bọn giặc huy động lính đuổi theo và bắn xối xả. Bất ngờ, chúng đụng phải tổ phục kích bắn chặn. Bị chết mấy thằng nên hoảng hốt rút lui, bọn lính đồn được một phen hú vía. Dân làng phấn khởi, đội tự vệ vui mừng và tự tin hơn.
Sau trận đó, bọn lính đồn hoảng sợ nên ít khi ra khỏi đồn, bọn bảo an càng hoang mang. Sợ mất đồn Mai Xá, chúng tăng cường thêm lính Pháp và lính lê dương.  Chúng cho lính Pháp và lê dương đóng tại đồn chính, nhà ông Thông Hy và cho bọn bảo an dân vệ đóng ở nhà ông Khoá Thẩm. Hai đồn có chung hàng rào thép gai, có giao thông hào, có luỹ xây bằng đất cao quá đầu người để bảo vệ đồn.

(1)     Gồm thôn Vinh Quang Thượng – Hạ, Làm Xuân Đông Tây, Mai Xá Chánh,  Mai Xá Thị, Hoàng Hà, chợ Hôm, Bác Vọng.


Lính đồn được bổ sung quân, trang bị vũ khí đầy đủ hơn, nên chúng hoạt động, lùng bắt ráo riết hơn. Cán bộ, đội tự vệ của xã, của làng ban ngày thường đi sơ tán ở các thôn Vinh Quang Thượng ,Vinh Quang  Hạ, Lâm Xuân Đông, Lâm Xuân Tây, chợ Hôm, Bác Vọng hoặc Xuân Thành, ban đêm lại về làng hoạt động, nắm dân.
Ngày 16 tháng 8 năm 1948 tiết trời nóng bức, gió Lào đã bắt đầu thổi. Gần Đôộng Hao Hao - một khu đất toàn cát, không có cây cao, toàn cây chổi, cây cỏ lươn “chó chạy không bén lông”, có một xóm nhỏ cũng thuộc làng Mai, được gọi là xóm Đôộng nhưng chỉ có ba bốn nhà. Nhà ở trên triền khe nhỏ, quanh năm có nước mạch ngầm, vì thế đủ nước cho người, súc vật sinh sống. Gần 12h trưa,  Uỷ ban kháng chiến xã triệu tập cuộc họp trên 20 người tại nhà bà Rạm Tượng, dưới sự điều khiển của ông Bùi Xuân Ban, lúc ấy là Chủ tịch xã. Ông Ban được ông Trương Quang Phiên – Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Quảng trị trang bị cho một khẩu súng lục để tuỳ thân và một ống nhòm. Trước khi vào họp, ông Ban đưa súng lục cho ông Nguyễn Văn Kỳ là xã đội trưởng và đưa ống nhòm cho một ông tự vệ dùng để canh gác. Cuộc họp chưa xong thì có tiếng báo động. Bọn giặc đã bao vây địa điểm họp mất  rồi. Địch đến quá gần khiến ta không trở tay kịp, song bọn địch cũng không thể nổ súng, vì trước sau đều có lính của chúng, nếu bắn thì lính của chúng cũng phải ăn đạn, thế là hai bên xáp lá cà ôm vật nhau, song vì ta ở thế bị động, lại ít người nên phải chạy thoát thân, chạy vào lòi Vinh Quang và về xóm lòi của làng. Hơn 20 người thoát chết, nhưng giặc bắt được ông Nguyễn Văn Kỳ, người Mai Xá thị và ông Nguyễn Phi, người xóm Kênh. Chúng đánh đập hai ông rất dã man, nhưng hai ông cương quyết không khai điều gì. Chúng trói hai ông và đưa về đồn Nhỉ Hạ. Sáng hôm sau chúng chặt đầu, bỏ xác lại đồn và đưa hai chiếc đầu về bêu ở làng Mai Xá.
Khoảng 10h, chúng dùng hai cọc tre đã vót nhọn chọc vào cổ và đem hai cọc đóng ngoài chợ làng Mai, nơi mọi người hay đi qua lại. Hành động của chúng thật man rợ, chúng còn dùng dầu chải tóc chải hai cái đầu láng mượt rồi phơi giữa nắng hơn một ngày. Đến chiều nước thủy triều lên, ngập sát đầu hai ông. Mặc dầu chúng rình mò, canh gác nhưng tối hôm đó gia đình và dân quân đã về lấy đầu hai ông, bỏ vào hai thúng đựng gạo đưa đi mai táng.
Cuối tháng 8 năm 1948, chi bộ Đảng cộng sản và Uỷ ban kháng chiến hành chánh xã triệu tập một cuộc họp đủ thành phần: Bí thư, phó Bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch xã, cán bộ xã, xã đội trưởng, xã đội phó... để truyền đạt một số chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, duy trì việc chống Pháp càn quét, khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ Đảng. Một buổi tối trước ngày họp, cán bộ đã tập trung ở nhà bà Bướm, cơ sở của Uỷ ban kháng chiến tại xóm Đồng, thôn Vinh Quang Thượng. Để an toàn, mọi người ngủ phân tán trong nhà dân các xóm. Ông Trương Công Địch, Bí thư chi bộ xã về ở xóm Rú. Ông Nguyễn Đăng Tập, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến xã cùng ông Trương Văn Lập, liên lạc uỷ ban và ông Trương Công Hám du kích của xã, bảo vệ uỷ ban ra xóm Đề, thôn Vinh Quang Thượng ngủ.
Sáng hôm sau, lúc 5h thì có báo động giặc về càn. Ông Tập, chủ tịch xã và ông Trương Văn Lập cùng xuống hầm bí mật, ông Trương Công Hám xuống hầm khác cách nhau không xa. Đến 7h thì bọn địch đóng ở các đồn Mai Xá, Nhỉ Hạ, Gia Độ, Đông Hà chợ Cầu kéo về đã siết chặt vòng vây bao quanh thôn Vinh Quang Thượng. Chúng lùng sục, xăm hầm bí mật. Tiếng súng nổ, tiếng dân kêu khóc... náo động khắp các xóm.
Đến 8h, một tốp giặc đến xóm Đề, lùng sục rất ráo riết, hình như có gián điệp đã báo trước. Chúng xăm hầm bí mật rất kỹ. Chúng đốt cây rơm và nhà ông Tư Thu (nhà mà ông Tập đang ẩn dưới hầm bí mật), ông Trương Công Hám nhìn thấy nhà cháy, khói lửa mịt mù, một số tài liệu bay tứ tung, mạng sống của ông chủ tịch bị đe doạ. ông Hám nghĩ có thể ông chủ tịch bị bắt hoặc bị bắn chết thì thiệt hại cho xã, cho dân vô cùng, nên ông liền nhảy lên hầm, ném lựu đạn về phía giặc và chạy về phía khác để đánh lạc hướng quân thù. Bọn giặc phần thì chết và bị thương do lựu đạn nổ, phần thì đuổi theo ông Hám nên không tìm hầm bí mật nữa. Ông Hám chỉ chạy được một đoạn thì trúng đạn và chết ngay tại chỗ.
Khoảng 10h giặc rút lui, ông Tập, chủ tịch xã và ông Trương Văn Lập ra khỏi hầm. Dân làng kéo đến nhà ông Tư Thu nghĩ là để lo tang lễ cho chủ tịch xã nhưng ông Tập còn sống, dân làng rất vui vì chủ tịch còn thì phong trào chống Pháp vẫn còn, Đảng vẫn còn.
Sau trận càn, Bí thư chi bộ và chủ tịch xã đều đánh giá là  ông Trương Công Hám đã chết anh hùng, hy sinh tính mạng để bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào kháng chiến chống Pháp. Trương Công Hám vốn là con một nông dân nghèo, từ nhỏ đi ở chăn trâu, bò cho nhà giàu. Trong thời kỳ chống Pháp, ông đã lập công lớn trong trận gài lựu đạn ở bến đồn Kênh, ở Quai Mọ, ở nhà Liểu và đây là trận liều mình cứu Chủ tịch xã, cứu  phong trào Cách mạng. Ông là một tự vệ gan dạ, thông minh, dũng cảm, xứng đáng là anh hùng của lực lượng vũ trang.
Tháng 10/1948, chúng tổ chức một cuộc càn quét lớn vào xã Linh Hà [4]. Vào lúc nửa đêm, chúng cho xe chở lính từ Quảng Trị - Đông Hà ra huyện lỵ Gio Linh, rồi kéo về làng Mai Xá. Một cánh quân từ Nhỉ Hạ theo bờ sông đào kéo vào, một cánh khác theo đường thủy đi từ Cửa Việt kéo lên vây chặt các xóm của làng Mai. Vào 6h, lính trong đồn chia quân lùng sục các nhà, hầm hào, luỹ tre để tìm bắt cán bộ và du kích. Được  tình báo ta đưa tin, bộ đội địa phương và du kích đã rút lui an toàn, chỉ để một số du kích và cán bộ ở lại nắm tình hình và động viên nhân dân. Không may là ông Trương Hữu Tần, ông Bính Thí, Bùi Luyện và một số khác chạy không kịp bị chúng phục kích bắt được: ông Trương Hữu Tần lúc đó là đảng viên Đảng Cộng Sản, Trưởng ban thông tin tuyên truyền của xã. Chúng giam các ông ở đồn Mai Xá vài hôm, sau chuyển ra giam ở đồn chợ Cầu. Chợ Cầu là một đồn lớn, cả lính Tây, lính lê dương, bảo an dân vệ có đến hàng trăm tên. Đồn đóng tại đình làng Hà Thượng. Đây là ngôi đình cổ, khang trang rộng rãi. Sau đình là bãi đất rộng có nhiều cây dương liễu, có đường ô tô liên huyện, đường số 1A thuận lợi cho việc chuyển quân từ các đồn khác về.
Để làm nhụt chí của du kích ta, chia rẽ dân và quân, giặc Pháp chủ trương khi một lính Pháp hoặc nguỵ bị giết thì chúng bắn một người tù. Song ít khi bắn công khai, chúng thường tổ chức thủ tiêu tù vào ban đêm. Khoảng một – hai giờ sáng chúng bắt người tù rời khỏi buồng giam, đưa lên xe bịt kín rồi chở đi bắn, thường là ở hai nơi: dọc đường 1A, nơi có những bãi đất hoang, nhiều cây dại mọc, hoặc cho xe qua cầu bến Sanh  sang bãi cát trắng ven bờ rồi bắn thủ tiêu người tù.
Ông Trương hữu Tần và một số cán bộ mà chúng cho là những người chống Pháp đến cùng bị giam riêng ở các phòng đặc biệt, có lính gác suốt ngày đêm. Chúng tra tấn rất dã man, dùng roi bằng đuôi cá đuối, dùi cui, máy quay điện làm cho tù nhân ngất đi sống lại nhiều lần. Nhưng vì chả khai thác được gì nên càng tức giận. Một tuần chúng tra tấn nhiều lần và không cho người nhà đến thăm. Dù ngày bị tra tấn nhưng đêm về ông Tần và một số tù nhân vẫn ca cải lương, hát vọng cổ. Khi tiếng hát của ông vang lên, cả nhà tù im lặng lắng nghe. Chúng giam ông Tần ở nhà tù Gio Linh khoảng ba tháng. Trung tuần tháng 12 âm lịch năm 1948, người nhà đến thăm thì không gặp được ông nữa. Một tuần sau, người nhà đến thăm cũng không được gặp, cũng không dò hỏi được tin tức gì. Gia đình chỉ biết là chúng đã đem đi thủ tiêu. Đợt thủ tiêu nhiều người này làng Mai Xá có 5 người, trong đó có ông Trương Hữu Tần, các ông Binh Thí, Bùi Luyện... Gia đình đã thuê thăm dò nơi người tù bị thủ tiêu nhưng vẫn không biết được.... Cho đến nay hơn năm mươi năm rồi, người làng và gia đình vẫn chưa tìm được hài cốt của các liệt sĩ nói trên.
Giặc Pháp tiếp tục tăng quân ở đồn Mai Xá, hòng tiêu diệt đội tự vệ, hạn chế hoạt động của cán bộ làng, xã nhưng chúng đã nhầm. Được sự hỗ trợ của trung đoàn chủ lực 95, hai đơn vị chủ lực C310 và C348 đã về hoạt động ở xã, hỗ trợ cho trung đội  tự vệ hoạt động tốt hơn. Quân địch vẫn ở thế bị bao vây, ban đêm chúng không dám ra khỏi đồn, ban ngày dân vẫn ra đồng cày, cấy, gặt hái.
Nhờ thuận trời nên các cánh đồng bội thu. Làng Mai Xá có nhiều cánh đồng rộng, màu mỡ, nên lúa, ngô khoai sắn rất tốt. Lúa gặt về dân tranh thủ phơi khô, đào hầm cất giấu. Đêm về, cán bộ của Uỷ ban kháng chiến xã, tự vệ, bộ đội giúp dân đem thóc gạo đi đóng thuế, tổ chức dân công chuyển thóc đến những địa điểm an toàn.
Người dân đóng thuế tự nguyện, hăng hái vượt qua những vùng địch kiểm soát mà không hề run sợ. Phong trào “bữa đồng tâm”, “ngày đồng tâm”, “mùa đông chiến sĩ” phong trào kết nghĩa quân và dân, nhiều bà mẹ nhận con nuôi, chăm sóc chiến sĩ bị thương, ủng hộ hàng trăm hũ gạo nuôi quân, hàng nghìn mét vải để bộ đội may quần áo.
Khoảng 14h, một chiều mùa đông năm 1948, dân làng nghe tiếng súng nổ ở phía bến đò Kênh, có cả tiếng súng trường, súng máy, lựu đạn lúc, đầu thưa thớt nhưng về sau dồn dập hơn. Thì ra hôm đó bọn lính ở đồn Mai Xá xuống chợ Hôm bị bộ đội và du kích phục ở bến đò Kênh. Trận đó bọn giặc bị bất ngờ, chạy tán loạn nên thiệt hại nặng, nhiều lính bị chết.
Lính ở đồn Mai Xá sợ quân ta bao vây đánh đồn nên đã xin cứu viện. Giặc Pháp đã huy động một lực lượng khá lớn, nào bộ binh, cơ giới... bao vây toàn xã hòng tiêu diệt quân ta. Song cuộc bao vây của chúng bị thất bại, bộ đội chủ lực, địa phương, du kích... đã rút từ tối hôm trước. Chúng tức giận, dọc đường gặp người nào bắt người ấy, cả cụ già phụ nữ đem về giam ở đồn Mai Xá, nhiều người bị tra hỏi dã man, nhiều chị em phụ nữ bị hãm hiếp. Những năm giặc Pháp đóng đồn, làng cũng bị tổn thất nhiều về người và của cải. Chúng bắt được một số thanh niên vào lính, lập hội tề, bắt bớ đàn áp nhiều gia đình có con đi kháng chiến chống Pháp. Vì thế Uỷ ban kháng chiến xã đã đề nghị lên Uỷ ban kháng chiến huyện cho một số con em cán bộ thoát ly ra vùng tự do Hà Tĩnh, Nghệ An. Thế là từ những năm 1949 đến năm 1954, nhiều con em làng Mai được ra học ở miền Bắc. Ông Trương Công Địch làm Bí thư Đảng uỷ xã, ông Nguyễn Đăng Tập làng Vinh Quang Hạ làm chủ tịch xã, ông Trương Văn Tựu làm xã đội trưởng, ông Trương Khắc Hưng làm xã đội phó. Địa điểm của Uỷ ban luôn thay đổi, khi ở Lâm Xuân, khi ở Bác Vọng, khi ở Vinh Quang Thượng hay Hạ, xã Linh Hưng kéo dài từ Bác Vọng lên đến Kỳ Trúc, dài hơn 6 -7 km nên phạm vi hoạt động của xã rất rộng, cũng vì thế tránh được nhiều tổn thất khi bọn giặc bao vây.
Nhà ở gần đồn Mai Xá, chị Trương Thị Thí (con ông chánh Chài), vợ ông Lê Đăng Minh, là cán bộ phụ nữ thường đi vận động bà con đóng góp tiền bạc, đóng góp thuốc men... giúp tự vệ, quân đội. Chị là người cán bộ gan dạ, được dân tin yêu, vì thế chị vận động ở gia đình nào thì mọi người dân sẵn sàng ủng hộ. Một đêm mùa đông, trời rét, gió heo may từng đợt lạnh buốt, dưới ánh trăng lờ mờ, chị đang đi vận động thì lính đồn phát hiện và bắn chị. Chị bị thương nặng rồi chết. Dân làng đều thương khóc chị.
Một chiều thu ngày 23 tháng 2 năm 1949, nước sông Cửa Việt vẫn trong xanh, gió biển thổi về làm không khí mát lạnh. Trước văn phòng Uỷ ban kháng chiến xã Linh Hưng là bãi cát trắng. Nhiều cây phi lao tốt tươi, người đi lại tấp nập. Kẻ đi chợ, người đi đánh cá dọc bờ sông. Trên sông, một số thuyền bè xuôi ngược. Chiếc từ Cửa Việt lên, chiếc từ Đông Hà về Cửa Việt, cách trụ sở Uỷ ban kháng chiến theo đường chim bay khoảng 1 km. Đội tự vệ cử người canh gác cẩn thận, nhưng thường chỉ để ý đến bọn giặc từ Cửa Việt đi lên, ít chú ý đến phía từ Đông Hà về. Hôm đó, bọn lính đi thuyền từ Cửa Việt về phía bên kia sông, rồi ngược trở lại nên người canh gác  không chú ý. Khi thuyền chúng ghé vào bờ, chỉ còn cách trụ sở của Uỷ ban kháng chiến độ 300m mới phát hiện được rồi báo động cho mọi người. Cán bộ Uỷ ban kháng chiến chạy tản ra phía sau động cát, nhưng phải trèo lên động cát cao nên không thể thoát thân nhanh  được. Vừa tầm súng của giặc, chúng bắn xối xả vào đoàn người đang chạy trốn. Rất may là nhiều người vượt qua được động cát, chỉ có ông Tạ Diêm, thư ký Uỷ ban kháng chiến và ông Trương Văn Thiên, cán bộ văn phòng bị bắn chết. Trận tập kích bất ngờ của giặc đã làm Uỷ ban kháng chiến xã tổn thất  về người và tài sản.
Giặc chiếm đóng trong làng nhưng các lớp học vẫn duy trì. Ngày học 2 buổi tại nhà ông Trương Quang Phiên, vì gia đình ông đang ở chiến khu Ba Lòng. Ba gian nhà ngói rộng rãi, có sân cho học sinh chơi khi hết tiết học. Nhà có vườn rộng, mùa hè trồng khoai, ngô, mùa đông cấy lúa. Vì đất tốt nên lúa luôn ngập đầu người. Từ lớp học đến đồn khoảng 150m. Bọn giặc luôn quản lớp học, nơi chúng lợi dụng dạy những bài học nói xấu chế độ ta... Đồn cử một thằng làm ở phòng nhì tên là giáo Nghi dạy một số môn. Thằng  ác ôn này thường dò la, tra xét tù nhân rất dã man, bắt bớ nhiều gia đình có con đi kháng chiến. Vì thế Uỷ ban kháng chiến đã quyết định phải trừ khử thằng phòng nhì đó. Giáo Nghi xảo quyệt, luôn cảnh giác cho lính đi theo.
Một chiều mùa đông năm 1953, mưa phùn lất phất, trời mờ tối, gió thổi mạnh. Hai anh du  kích “mang tơi” lách vào nương lúa như hai người làm vườn. Họ từ từ đến sau lớp học. Thấy động, giáo Nghi nhảy qua cửa sổ chạy thoát. Ông giáo Đản sợ quá định chạy vào đồn thị bị trúng đạn của du kích. Phục kích xong, đội tự vệ trở về an toàn, bọn lính đồn cũng không dám đuổi theo. Giáo Nghi thoát chết, nhưng từ đó hắn không dám hung hăng nữa, dân làng đỡ nghẹt thở, tin tưởng vào bên ta hơn.
Đầu năm 1952, thế của ta và địch đã thay đổi, Bình Trị Thiên đã thành lập sư đoàn 325, có 3 trung đoàn. Trung đoàn 101 hoạt động ở Thừa Thiên, trung đoàn 95 hoạt động ở Quảng Trị, trung đoàn 118 hoạt động ở Quảng Bình. Bộ đội chủ lực đã đánh nhiều trận làm cho quân Pháp hoảng sợ, như trận Thanh Hương ở Thừa Thiên, trận Dốc Miếu, đường 73, 74 ở Quảng Trị, trận Ba Đồn ở Quảng Bình. ở Quảng Trị có đại đội ông Một đánh đâu được đó, lính Pháp và quân nguỵ nghe tiếng đại đội ông Một thì vác súng chạy ngay. Bài hát Bà mẹ Gio Linh của nhạc sĩ Phạm Duy vang lên: “Mẹ già cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày cho dù áo rách sờn vai, cơm ăn bát vơi bát đầy, nhà  thì nó đốt còn đâu, khuyên nhau báo thù đêm ngày”... dân làng Mai, quân dân Bình Trị Thiên, ai ai cũng thuộc, bởi nó đã khắc sâu chí căm thù của làng Mai. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quân dân làng Mai lại càng đoàn kết hơn. Bộ đội bảo vệ cho dân làng gặt hái, sản xuất. Dân làng lo tiếp tế gạo, cơm, thuốc men cứu thương cho bộ đội, tình nghĩa quân dân như cá với nước. Đêm về, dân làng đi dân công tiếp tế lương thực lên chiến khu, đi phá đường số 1A từ Đông Hà ra Dốc Miếu. Dân làng đã tập trung ở Lòi, lần theo dọc Lòi Vinh Quang Thượng và Hạ, lên Hà Thanh để phá đường.
Cuối năm 1953 đầu năm 1954, quân ta đánh mạnh khắp các chiến trường Trung – Nam – Bắc. Giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị bao vây, bộ đội ta chuẩn bị tấn công, nên lính Pháp ở Quảng Trị cũng hoang mang dao động. Uỷ ban kháng chiến và xã đội chủ trương mở rộng binh vận, khuyên lính nguỵ bỏ súng trở về quê hương. Làng Mai Xá cũng phải giác ngộ số con em mình bị bắt đi lính đang ở trong đồn.
Trước tiên là phải vây đồn, ngăn tiếp tế từ ngoài vào, buổi tối tổ chức gọi loa tuyên truyền chính sách của Đảng và Chính phủ, với thắng lợi của bộ đội ta ở khắp các chiến trường, nhất là ở Điện Biên Phủ, khi cuộc tổng tấn công sắp bắt đầu... Các gia đình có con em đóng ở đồn tìm cách tiếp cận để gây tình cảm, phân tích lợi hại, thế của ta và địch ở các chiến trường. Phải nắm số lính nguỵ có cảm tình với ta, muốn trở về với dân, với Đảng, tuyên truyền giác ngộ và biến họ thành những tuyên truyền viên đắc lực trong hàng ngũ địch. Thế là một số con em đã trở về, số lính đảo ngũ ngày  càng đông, rồi một đêm tất cả số lính là con em làng Mai đều bỏ đồn về nhà. Sáng ra, bọn lính trong đồn hoang mang cực độ, tìm cách đào ngũ, rút cục không còn một người lính nào trong đồn.
Làng Mai Xá Chánh được giải phóng như thế đó.
Ta lấy được đồn mà không tốn một viên đạn nào, chính sách binh vận tốt đã giúp dân làng giải phóng được quê hương.
V. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (Cuối 1954 đến Tháng 5/1975)
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ ne vơ về Đông Dương được ký kết, lấy sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị làm đầu cầu giới tuyến. Vùng phi quân sự được hình thành, có ủy ban giám sát quốc tế, do ấn Độ làm trưởng ban giám sát hai bên thi hành hiệp định. Mai Xá cách vùng phi quân sự về phía Nam chưa đầy 15 km. Những ngày đầu, nhân dân ra vào giới tuyến dễ dàng: bộ đội, cán bộ, con em làng Mai đi tập kết được thuận tiện. Con em ra miền Bắc được vào học các trường miền Nam trên đất Bắc. Ban giám hiệu, các thầy cô giáo nhân dân địa phương dạy dỗ, chăm sóc chu đáo.
Cảnh chia tay giữa vợ chồng, giữa mẹ con, những cặp trai gái trẻ yêu thương thật là thắm thiết, từ những cái bắt tay, những nụ hôn, những cái nhìn thấu tim gan. Những lời hứa sẽ đợi nhau, sẽ về với nhau, hai ngón tay của mọi người đưa lên hứa hẹn hai năm sau tổng tuyển cử sẽ gặp nhau, Nam Bắc thống nhất.
V.1. Thời kỳ 1954 – 1959- cuộc chiến tranh đơn phương
Thực hiện chủ trương nghị quyết của trên và huyện uỷ Gio Linh, chi bộ xã, làng đã tổ chức cho quần chúng học tập, nắm được nội dung Hiệp định đình chiến, tuyên truyền thắng lợi Điện Biên Phủ, thắng lợi của 9 năm kháng chiến chống Pháp, và nói rõ âm mưu của Mỹ nguỵ là muốn phá hoại Hiệp định, muốn chia cắt lâu dài đất nước ta. Qua đó xác định nhiệm vụ của chị bộ và nhân dân chống lại các âm mưu của địch. Để ổn định đời sống của nhân dân, thực hiện chủ trương của chi bộ của xã, ông Bùi Minh Quốc, Bí thư chi bộ xã đã vận động dân làng tổ chức lại chợ, tổ chức các bến đò ngang để nhân dân đi lại dễ dàng. Nhân dân trong xã sửa sang lại trục đường qua xã, từ Mai Xá lên đường 1A, dài hơn 5km, mở lớp học bình dân học vụ, tổ chức lại phong trào ca hát, mỗi nhà đều lập bàn thờ treo ảnh Bác Hồ. Cuộc sống an bình của nhân dân chưa được bao lâu, dân làng Mai lại bị kìm kẹp, áp bức, chém giết. Bè lũ Mỹ - Diệm muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ áp dụng một số biện pháp, nặn ra ở miền Nam một chính quyền thân Mỹ, thực hiện khẩu hiệu “Chống Cộng, diệt Cộng” trả thù những người kháng chiến, loại Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Cuộc chiến tranh đơn phương từ 20/7/1954 đến năm 1959, nằm trong âm mưu cướp nước của Mỹ, địch lấy Mai Xá và một số thôn có phong trào kháng chiến mạnh của huyện Gio Linh làm thí điểm, địch nặn ra ở đây bộ máy chính quyền thôn, xã. Tăng cường bọn bảo an, công an, mật vụ có quy mô trung đội, đại đội. Chúng dựng lên “phong trào Cách mạng quốc gia”, “ Thanh niên Công hội”,  “phụ nữ liên đới”. Tổ chức các đảng phái phản động như Đảng cần lao nhân vị, xúc tiến lập các  “tam ngũ gia liên bảo”, “liên thôn chống Cộng”. Tuyên truyền chủ nghĩa cứu tinh “Anh linh Ngô Đình Diệm”.
Chúng còn tiến hành phân loại quần chúng để bắt bớ giam cầm những gia đình có thân nhân tham gia kháng chiến, hòng tiêu diệt cơ sở Cách mạng, ly khai tư tưởng của Đảng trong quần chúng. Chúng khống chế nhiều gia đình như gia đình ông Trương Văn Táo, bà Trương Thị Cháu, ông Bùi Cảnh... để làm lung lạc ý chí Cách Mạng của nhân dân, cưỡng bức các gia đình đồng chí Bùi Minh Quốc, Phan Bội, Lê Vinh phải ở cạnh trụ sở của nguỵ quyền. Chúng bắt nhiều thanh niên như ông Lê Lập, Bùi Thiệu, Trương Công Thú, Lê Côn, Bùi Thị Cháu, Trương Khắc Bốn và nhiều thanh niên khác lên vùng Soa  của làng Cùa, Hoàng Cát huyện Cam Lộ để cải huấn.
Chúng bắt cóc Bí thư Đảng ủy xã, bắn chết phân đoàn phó thanh niên, tịch thu tài sản, trâu bò, thóc lúa các gia đình kháng chiến cũ, có thể nói Mai Xá bước vào thời kỳ khó khăn và đen tối.
Trước những diễn biến phức tạp, cần tránh tổn thất, gây dựng lại phong trào và nắm dân, thực hiện chủ trương của Trung ương và Tỉnh uỷ Quảng Trị, huyện uỷ Gio Linh đã về xã Gio Hà, làng Mai Xá để chỉ đạo  phong trào. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ xã, chi bộ Mai Xá đề ra chương trình hoạt động cụ thể, thiết thực, phù hợp với tình hình mới. Đó là chuyển một bộ phận đảng viên, cán bộ và con em trong thôn vượt qua vĩ tuyến, ra vùng tự do Thanh – Nghệ – Tĩnh để học tập và công tác, phân tán một số thóc gạo và tiền bạc để phục vụ cho việc ăn uống của cán bộ hoạt động bí mật sau này, tổ chức dân công chuyển 35 tấn thóc, thuốc Tây và vũ khí, tài liệu ra vùng thuỷ Ba, huyện Vĩnh Linh...
Chi bộ Mai Xá gồm 12 đảng viên bám trụ hoạt động trong lòng địch. Để tránh tổn thất, chi bộ chuyển sang hoạt động bí mật, một số đồng chí hoạt động theo hình thức đơn tuyến, số còn lại sinh hoạt với cấp trên. Nhờ vậy, trong giai đoạn 1955 – 1957, dù địch ra sức đàn áp, khủng bố, ly khai Đảng nhưng Mai Xá là một trong 3 thôn của huyện Gio Linh vẫn duy trì được sự hoạt động của chi bộ Đảng. Chi bộ đã tổ chức các hội như thanh niên, phụ nữ, phụ lão... với các hoạt động mạnh như: đào hấm bí mật, tuyên truyền chính sách, vận động dân đấu tranh công khai, chống khủng bố, đòi thực hiện tổng tuyển cử.
Trong giai đoạn này, địch dùng nhiều âm mưu xảo quyệt, thủ đoạn dã man, vì thế cấp trên chủ trương chọn phương thức vận động quần chúng đấu tranh chống bọn Mỹ - Diệm thiết thực hơn. Mở đầu cuộc đấu tranh của làng Mai và nhân dân xã Gio Hà là huy động dân ngăn chặn các cuộc vây ráp, lùng sục cán bộ.
Tháng 2/1955, giặc cho 2 ca nô chở đầy lính có vũ trang đầy đủ chạy từ thị xã Đông Hà định vây bắt số cán bộ xã, huyện còn hoạt động ở thôn Lâm Xuân. Muốn ra được Lâm Xuân, ca nô phải chạy qua sông Cánh Hòm, nên chúng nói với dân là ca nô chỉ chạy theo sông Cánh Hòm để ra Bến Ngự. Nhưng nhân dân biết rõ âm mưu của chúng nên kéo ra đầu sông Cánh Hòm, ngăn không cho ca nô chạy qua, lúc đầu chỉ có ba trăm người, nhưng sau khi nghe tin, đồng bào bỏ cả đi chợ và làm đồng kéo đến rất đông, có đến trên ngàn người. Dân lấy cớ để bảo vệ đập ngăn mặn ở sông Cánh Hòm, không cho địch phá đập để ca nô chạy qua. Cuộc đấu tranh kéo dài 3 – 4 giờ, trước thế áp đảo của nhân dân, bọn giặc nhụt chí phải rút lui, huỷ bỏ cuộc hành quân lùng sục. Thắng lợi đầu tiên đó làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân phấn khởi và tin tưởng vào sự hoạt động của chi bộ và cán bộ xã.
Cuối tháng 2/1955, giặc bắn chết ông Trương Hữu Tân, phân đoàn phó thanh niên, bắt cóc đồng chí Võ Thêm chủ tịch UBKC xã Linh Hưng tại xóm Lòi Mai Xá, quần chúng đã đứng lên đấu tranh quyết liệt, đòi trả lại tự do cho ông Võ Thêm. Dân làng cử một đoàn đem đơn đến nhà chức trách Liên hiệp Pháp đóng ở Mai Xá đòi địch dừng khủng bố, trả lại tự do cho những người bị bắt, địch hoảng sợ, điều động binh lính đến vây ráp. Trước tình thế bất lợi, lực lượng của ta và địch không cân sức, sợ tổn hại đến phong trào, bà Bùi Thị Vấn giả vờ ốm nặng nằm xoài, trợn mắt, mặt tái xám trước bàn làm việc của địch, đoàn người biểu tình lợi dụng xông lên giằng xé với địch, chúng run sợ và tìm cách tháo lui, rồi chúng chấp nhận ký vào đơn. Đoàn người tiếp tục lên Dốc Miếu - cách làng Mai Xá hơn 10 km  để gặp Uỷ ban quốc tế giám sát việc thực hiện Hiệp đình đình chiến Giơ ne vơ. Khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng buộc địch phải trả tự do cho ông Võ Thêm và ngừng khủng bố một thời gian.
Tháng 8/1955, trong âm mưu chiếm nước ta lâu dài, địch tiến hành lập bộ máy hành chính khắp tỉnh và huyện Gio Linh. Chúng lấy thôn Mai Xá làm thí điểm, chọn các tên đầu hàng, phản bội ra làm tề, nhưng bọn giặc đã gặp sự chống đối quyết liệt của hàng ngàn dân Mai Xá, đấu tranh để kéo dài thời gian lập tề, thăm dò ý đồ của địch. Dân làng yêu cầu muốn lập tề phải tổ chức bầu cử dân chủ, rồi vận động mọi người tìm cách từ chối không ra ứng cử.Họp đi, họp lại nhiều lần nhưng mãi đến năm 1956, chúng mới lập được tề.
Đến cuối năm 1956 vẫn không có hội nghị hiệp thương tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chủ trương của cấp trên là vận động, tổ chức quần chúng đấu tranh đòi bọn Mỹ – Diệm phải thi hành hiệp định, tổ chức tổng tuyển cử. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của huyện uỷ và đảng ủy xã Gio Hà, chi bộ làng Mai đã vận động gần 1000 nhân dân các thôn An Trung, Lâm Xuân, Hoàng Hà, Mai Xá tập trung tại đình Mai Xá dự mít tinh, rồi cả đoàn đi bộ lên Dốc Miếu để đưa đơn cho trưởng đoàn ấn Độ (trưởng đoàn Uỷ ban quốc tế giám sát hiệp định Giơ ne vơ) đòi tổ chức hội nghị hiệp thương.  Mặc dầu đường xa phải thức khuya, dậy sớm, qua sông, qua đò, cơm đùm, cơm nắm nhưng mọi người đều phấn khởi tham gia. Đoàn gồm cụ già, phụ nữ, trẻ em, dù trời tháng 7 thỉnh thoảng lại mưa rào, quần áo ướt đẫm, nhưng không một lời kêu ca. Đoàn đi dưới sự giám sát của bọn bảo an, tình báo. Trên đường đi, chúng luôn tìm cách doạ nạt, ngăn chặn. Khi đoàn người đến cầu Bến Sanh  gần huyện Gio Linh, cách Dốc Miếu khoảng 3 km, địch cho lính xông vào đàn áp, đánh đập. Lập tức lãnh đạo đoàn tổ chức chống lại, vì trước khi đi cũng đã đề phòng sự bất trắc giữa đường. Thế là cả đoàn người vây quanh bọn lính, một số người xông vào bắt bọn lính phải dừng tay, bọn địch thấy yếu thế nên không hành hung đoàn biểu tình nữa. Đoàn tiếp tục tiến về Dốc Miếu và đã đưa được đơn cho phái đoàn giám sát đình chiến.
Để gây khó khăn về đời sống cho nhân dân lao động và các gia đình có người đi kháng chiến tập kết ra Bắc, địch đề ra chủ trương chia cấp ruộng đất, rút ruộng của những người kháng chiến chia cho bọn tề nguỵ, bảo an gian ác. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ làng, nhân dân đã đứng ra đấu tranh và đã ngăn chặn được chủ trương chia ruộng của chúng.
Cuộc đấu tranh chống luật 10/1959 “tố Cộng, diệt Cộng”
Để trả thù những người tham gia kháng chiến cũ (chống Pháp), địch quy dân vào các trại tập trung, lập ấp chiến lược, thực hiện luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam chém giết, đưa những người Cộng sản ra ngoài pháp luật, với ý đồ “tát cạn nước để bắt cá”. Bọn chúng tra tấn dã man nhiều đảng viên Cộng sản và cán bộ cốt cán như nguyên Bí thư chi bộ Lê Thị Hoè,  Bí thư chi bộ Trương Thị Hai, các ông Trần khởi, Phan Bội. Chúng bắt dân tập trung nhiều ngày ở trụ sở của địch, bắt khai báo, tố cộng. Địch dùng mọi thủ đoạn như mua chuộc, doạ nạt, đánh đập nhưng không ai khai báo. Dân còn nói “Việt Cộng có tội gì mà tố”, những người tham gia kháng chiến đưa lại hoà bình cho đất nước, đem lại độc lập, tự do cho nhân dân.
        Luật 10/59 phát ra
Máy chém, chém cả mẹ già, trẻ thơ
        Miền Nam không thể ngồi chờ
Tìm cách chống lại, phất cờ đứng lên
Nhằm thực hiện tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương về đường lối Cách mạng miền Nam, được sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện uỷ[5], chi bộ làng Mai tiến hành củng cố xây dựng Đảng, phát triển lực lượng bán vũ trang tại chỗ. Đầu tháng 11/1959 ,chi bộ có 7 đảng viên, đồng chí Trương Thị Hai (con ông Trương Khắc Tá) làm Bí thư. Làng Mai Xá đào nhiều hầm bí mật ở nhà hoặc trên Lòi để nuôi cán bộ xã và huyện. Chị Trương Thị Hai nuôi cán bộ trong nhà, làm liên lạc giữa xã với huyện uỷ Gio Linh, là tấm gương chiến đấu gan dạ thông minh, gần dân.
Suốt cả thời kỳ 1958 – 1959, địch nêu khẩu hiệu “Dung Cộng là tự sát”, dân Mai Xá vẫn không hề nao núng:
“Gan Mai Xá như đá Hảo Sơn”
Mai Xá gan thật, Mai Xá có nhiều hình thức đấu tranh làm cho bọn giặc phải trở tay không kịp. Chi bộ đảng Mai Xá lãnh đạo quần chúng chống “tố cộng” bằng nhiều hình thức linh hoạt, phong phú. Khi địch vây ép “tố cộng”, chi bộ vận động dân đi lấy củi ở xa, trốn đi chợ hoặc tổ chức đám giỗ, để trì hoãn cuộc họp. Khi chúng tập trung được người đến họp thì vận động dân giả ốm đau, kêu đau đầu, ôm bụng kêu la trúng gió, buộc địch phải giải tán cuộc họp.
Địch tổ chức phát quang, xăm hầm bí mật ở nhà, vườn thì quần chúng phát quang chầm chậm, vừa phát vừa hô to: “Việt cộng ở đâu ra hàng nếu không thì chết” để báo cho các cơ sở tìm cách che dấu cán bộ. Lòi Mai Xá rộng và dài, liền với Lòi Vinh Quang là nơi cán bộ thường lui tới hội họp, nắm tình hình nên ở Lòi cũng có nhiều hầm bí mật. Âm mưu của địch là phải phát quang Lòi để không cho cán bộ ẩn nấp, hoạt động hàng ngày hoặc ban đêm.
Chúng bắt dân Mai Xá đi phá Lòi nhưng để báo cho cán bộ xuống hầm ẩn nấp, hay thoát khỏi Lòi mà không bị bắt, dân còn có cách gây ồn ào hoặc cất giọng hò để báo tin cho cán bộ. Dân phát cây nhưng đến chiều mới thu dọn đưa về, tạo điều kiện cho cán bộ trà trộn vào những người đưa củi về,  vì thế cán bộ ta có thể thoát ra khỏi vòng vây không bị tổn thất.
Một ngày hè nóng bức, mới sáng mà các trận gió Lào đã lay động nhà cửa, cây cối đung đưa, địch chọn Quai Mo – ngã tư đường phía Bắc của làng, làm địa điểm ”tố Cộng”. ở đây có bãi cỏ rộng, bãi tha ma, với những lùm cây bóng mát, có thể tập trung hàng ngàn người. Cờ ”ba que” treo khắp dọc đường. Trống, mõ inh ỏi, loa kêu gọi dân tập trung ”tố Cộng”. Mới 7h mà bọn bảo an, tình báo đã lùng sục các nhà, bắt dân đến địa điểm tập trung. Có những cụ già tóc đã bạc phơ, chúng cũng bắt chống gậy đi. Có những bà mẹ phải tay bồng, tay dắt con đi theo. Từ xóm dưới làng, chỉ cách Quai Mọ khoảng 1km mà đoàn người đi hàng giờ chưa đến địa điểm. Mãi đến 9h30’, hơn trăm  cụ già, bà mẹ, trẻ con mới đến Quai Mo. Địch cho lính gác xung quanh, cho bọn công an, bảo an đứng xen kẽ vào dân đề phòng dân phá rối.
Trên lễ đài, một thằng ác ôn đeo kính râm thao thao, bất tuyệt tố cáo tội ác của Việt Cộng. Chúng nói Cộng sản bán nước cho Trung Cộng – Nga Xô...
Mọi người nửa nghe, nửa nói chuyện ồn ào cả sân bãi. Bất thình lình, ở phía sau đám đông, bà Cửu Kỉnh giả vờ trợn mắt, chân tay co giật liên hồi, nằm xoài ra giữa đường. Dân làng hoảng hốt quay lưng trở lại, chạy đến bên người bị nạn, và thế là như ong vỡ tổ, chỉ năm bảy phút sau, cuộc “tố Cộng” phải huỷ bỏ,địch phải cuốn cờ giải tán. Bọn tề nguỵ tức tối chạy đi, chạy lại giữ dân không được. Ra về, mọi người nhìn nhau bởi những cặp mắt thán phục, ca ngợi cuộc đấu tranh hợp pháp và có hiệu quả, chi bộ, các đoàn thể đã bí mật họp hội nghị rút kinh nghiệm, tìm mọi cách đối phó với lũ quỷ ác ôn.
Để thực hiện âm mưu chiếm đóng lâu dài và bảo vệ binh lính nguỵ, hạn chế hoạt động của du kích, chúng tiến hành rào làng, lập ấp chiến lược. Quân “Rằn ri” la hét điên cuồng, bắt dân chặt tre, đuổi chợ, ngăn đường. Phát huy thắng lợi, đội quân tóc dài gồm các bà mẹ gan dạ và thông minh nghĩ ra nhiều cách trì hoãn việc rào làng, lập ấp. Dân kêu rào làng trở ngại việc đi lại và làm ăn của mình. Chúng ra lệnh giới nghiêm, tra hỏi, lục soát du kích và cán bộ Cách mạng, làm khổ dân mọi bề, nhiều cán bộ cũng bị bắt, thậm chí bị bắn. Mặc dầu địch khủng bố dã man nhưng dân không sợ, vẫn đấu tranh quyết liệt, và cuối cùng địch không rào được làng.
Đây là  thời kỳ đen tối, miền Nam bị tổn thất nặng nề nhất, nhưng cơ sở Đảng làng Mai vẫn còn, dân vẫn tin ở Cách mạng, vững lòng đấu tranh . Đến cuối năm 1959, Mai Xá phát triển thêm được 7 đoàn viên mới, nâng số đoàn viên thanh niên lên 30 người. Chi bộ tổ chức một đội du kích bí mật gồm 17 người. Chị Trương Thị Hai vừa là Bí thư chi bộ, vừa chỉ huy đội du kích. Đội du kích được chuyển ra bờ Nam giới tuyến huấn luyện. Nhiệm vụ của đội là làm tình báo, nắm vững tin tức từ lòng địch để báo cáo với xã, huyện và chuyển lương thực, thuốc men ra vùng hậu cứ, tiếp nhận tài liệu, vũ khí từ giới tuyến vào vùng địch hậu để chuẩn bị cho những trận đánh lớn. Ngoài ra, đội còn tìm cách luồn vào lòng địch quấy rối, áp sát, phá đồn địch, diệt ác ôn.
Giai đoạn này, làng Mai Xá và xã Gio Hà được Ban thường vụ tỉnh uỷ Quảng Trị tuyên dương là xã khá toàn diện trên mọi mặt hoạt động
V.2. Thời kỳ chống chiến tranh đặc biệt (1960 – 1965)
Từ những năm 1960 – 1965, Cách mạng Việt Nam mở ra hướng đấu tranh mới có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Thời kỳ tạm ổn của chế độ Ngô Đình Diệm đã qua, phong trào đấu tranh dâng cao. Xóm làng Mai Xá Chánh sôi động đón chào ngày thành lập Mặt trận Giải phóng miền Nam. Tháng 9/1960, Đại hội lần thứ 3 của Đảng đã đề ra 2 nhiệm vụ chiến lược, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thực hiện chỉ thị của cấp trên, chi bộ Đảng Mai Xá lãnh đạo quần chúng chống dồn dân, lập ấp chiến lược, chống bắt con em đi lính, tìm cách diệt ác, trừ gian. Từ tháng 2/1962 đến tháng 5/1963 với sự hỗ trợ của các đại đội chủ lực, đội du kích mật đã tiến hành một đợt diệt ác trừ gian liên tục. Mở đầu chiến dịch truy kích nguỵ quyền làng, xã, diệt một số tên, không chế các uỷ viên hội tề và cảnh sát nguỵ.
Ba giờ ngày 29/1/1963, được quần chúng giúp sức, du kích bí mật phối hợp với lực lượng bên ngoài đã bắt cải tạo nhiều tên ngụy quyền, đảng phái, gián điệp, bắn chết tên Tạ Mại, Bí thư Đảng bộ  Đảng Đại Việt xã Gio Hà, tên Mại chuẩn bị làm Quận trưởng Ba Lòng.
Đầu tháng 11/1963, do mâu thuẫn với chế độ Ngô Định Diệm, Mỹ tổ chức đảo chính, Dương Văn Minh  lật đổ chế độ gia đình trị của Ngô Đình Diệm, nội bộ địch lại hoang mang cực độ. Nắm được thời cơ, nhân dân Mai Xá nổi dậy phá 3km hàng rào, phá bung ấp chiến lược, tạo điều kiện cho du kích, quân chủ lực vào làng hoạt động. Trước tình hình đó, muốn duy trì được trật tự và nắm dân, địch tìm cách ngăn chặn phong trào đấu tranh . Chúng tung mật vụ, thám báo hoạt động thăm dò lực lượng ta. Huyện uỷ chủ trương  diệt bằng hết bọn này để giữ bí mật, bảo vệ an toàn lực lượng.
Làng Mai Xá Chánh có đồn công an ngụy quyền là đồn Đại Lộc đóng ở Đồng Kênh. Đồn này gian ác có tiếng, được bảo vệ nghiêm ngặt bằng nhiều lớp rào tre, dây thép gai chằng chịt, với ba lớp hào sâu. Tháng 6/1964, Trung đội du kích mật của làng Mai Xá ném lựu đạn vào đồn công an Đại Lộc. Tháng 7/1965, lực lượng du kích xã Gio Hà dùng mìn đánh sập trụ sở nguỵ quyền xã Gio Hà, diệt một số tên giặc.
Thời gian này đội du kích của xã gồm nam và nữ có 70 người, hoạt động mạnh. Bà Trương Quang Thi Hưng làm xã đội trưởng, ông Điệp làm xã đội phó.
Trước những trận tập kích của ta, hàng ngũ địch dao động mạnh, bọn ác ôn, mật vụ hoang mang. Nhân đó, ta làm công tác binh vận, giáo dục tuyên truyền tốt cho nên nhiều người trong lực lượng thanh niên chiến đấu của Ngô Đình Diệm đã bỏ súng không canh gác, 8 lính còn bỏ ngũ về nhà, tổ chức thanh niên chiến đấu của Diệm bị giải tán. Phong trào đồng khởi của làng Mai Xá Chánh lên cao góp phần quan trọng vào phong trào chung của huyện Gio Linh, cùng với nhân dân cả nước đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
V.3. Thời kỳ chống “Chiến tranh cục bộ” của  Mỹ và bè lũ tay sai (1965 – 1968).
Hòng cứu vãn nguy cơ thất bại trong chiến tranh đặc biệt, năm 1965 đế quốc Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân vào miền Nam, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ”, đồng thời từng bước leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân. Trước thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ, hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khoá III) đã xác định chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc và của mỗi người dân yêu nước.
 Lời kêu gọi nhân dân cả nước phát đi ngày 17/7/1966 của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do, đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”
Lời kêu gọi thiêng liêng ấy đã thôi thúc nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.  Quân và dân Mai Xá Chánh một lần nữa được động viên, tiếp sức, củng cố lòng tin đến thắng lợi cuối cùng của Cách mạng. Chủ trương của huyện uỷ và chính quyền lúc này là phải mở rộng vùng giải phóng, nhất là vùng đồng bằng của huyện. Những năm 1965 – 1968, lực lượng du kích kết hợp với bộ đội địa phương đã đánh nhiều trận, giải phóng các xã phía dưới đường 1A. Lúc này, Mai Xá Chánh phong trào đấu tranh lên cao, thành lập một tổ hoạt động nội tuyến để cung cấp cho bộ đội giải phóng tin tức về nội bộ quân địch, cách bố trí đồn bốt, thời gian canh gác, lùng sục… .
Thực hiện mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Đức Dũng, Bí thư huyện uỷ Gio Linh, đêm ngày 19/12/1965 đội công tác chính trị bộ đội địa phương của huyện, đội du kích xã bí mật ẩn vào nhiều nhà dân ở làng Mai Xá Chánh, trong đó có một trung đội của K400 ẩn vào các vườn, nhà của ba gia đình: Bùi Văn Toản, Bùi Thị Cháu, Bùi Thị Con để chuẩn bị diệt trụ sở chính quyền  nguỵ. Đúng 16h30’ ngày 20/12/1965, các lực lượng đồng loạt nổ súng vào trụ sở chính quyền ngụy. Bị đánh bất ngờ, địch hoảng hốt, trở tay không kịp phải đầu hàng. Quân ta đã diệt 1 trung đội dân vệ, đánh tan chính quyền ngụy xã Gio Hà, diệt nhiều ác ôn, bắt sống 15 dân vệ, thu 20 súng, giải phóng được quê hương.
Làng Mai Xá thành lập chính quyền Cách mạng. Ban cán sự thôn ra đời, mở ra một phong trào Cách  mạng mới, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc chống Mỹ cứu nước của dân làng Mai. 65 nam nữ thanh niên xung phong đi bộ đội giải phóng, du kích hoặc tham gia dân công hoả tuyến.
Để bảo vệ tuyến vận tải huyết mạch đường thuỷ từ Cửa Việt lên Đông Hà, địch quyết đánh bật lực lượng của ta khỏi bờ Bắc sông Thạch  Hãn và sông Hiếu. Bên ta chủ trương bám trụ, phải làm chủ bờ Bắc sông Thạch Hãn và sông Hiếu để làm địa bàn vượt sông sang bờ Nam, đồng thời ngăn chặn con đường vận chuyển tiếp tế của địch  bằng tàu thuỷ, thuyền máy… Mai Xá Chánh, một chiến trường vốn đã khốc liệt nay càng khốc liệt hơn.
Các trung đội tự vệ của xã phối hợp với bộ đội địa phương đánh tan nhiều đợt hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ và giữ vững vùng giải phóng. Với khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, tháng 1/1966, đội du kích đánh quân bình định ở Mai Xá, diệt 3 tên, làm bị thương 2 tên lính bình định. Trận đánh này có nhiều  gương chiến đấu rất dũng cảm như Trương Hữu Trọng đánh trả quyết liệt nhiều lần phản kích của địch, Trương Quang Em đã xông pha trận địa cõng thương binh về nhà mẹ Tạ Thị Năm băng bó và thu giấu thương binh an toàn.
Từ tháng 3/1966 đến tháng 9/1966, dân quân cùng bộ đội địa phương đánh 22 trận, diệt và bắt sống nhiều lính bảo an, dân vệ, bắn cháy 2 xe tăng, một máy bay lên thẳng…Gan dạ và thông minh, chỉ huy nhiều trận đánh khiến quân thù hoảng sợ, các ông Trương Công Thu và Trương Công Trại đều được phong tặng là “Dũng sỹ diệt Mỹ”. Làng Mai đã góp phần tích cực vào thắng lợi năm 1966 của xã  Gio Hà, huyện Gio Linh, đánh bại chiến lược của Mỹ – nguỵ.
Hưởng ứng cuộc Tổng tấn công nổi dậy, mùa xuân Mậu Thân năm 1968, dưới sự chỉ đạo của tỉnh và huyện, dân Mai Xá cùng với nhân dân cả xã tổ chức du kích mật, dân công tham gia các đội vận chuyển vũ khí, lương thực, cứu thương, hoặc vận động đóng góp gạo, thực phẩm, thuốc men  y tế.
Đêm 31/1/1968, lực lượng vũ trang tấn công địch trên toàn miền, đánh vào Sài Gòn, Đà Nẵng, thành phố Huế. Dân quân huyện Gio Linh tấn công tất cả các đồn của địch từ phía Nam sông Bến Hải đến bờ Bắc sông Thạch Hãn và sông Hiếu. Tiểu đoàn 47 thuộc trung đoàn 270, đại đội K400 bộ đội địa phương đã chiếm lĩnh được trận địa các làng Mai Xá Chánh và Mai Xá Thị.
Bọn địch điên cuồng cho tàu chiến, xe tăng, máy bay trực thăng đánh vào làng Mai Xá và một số làng khác, nhưng bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, xe tăng của chúng phải tháo chạy về Quán Ngang.
Đêm 20/1/1968, địch dùng pháo ở các căn cứ Đông Hà, Dốc Miếu, ở hạm đội 7 và hàng chục máy bay ném bom bắn phá dữ dội. Các làng Mai Xá Chánh, Mai Xá Thị, Lâm Xuân… chìm ngập trong biển lửa. 10h ngày 21/1/1968 địch huy động 3 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 2, sư đoàn 1 nguỵ, 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ có 20 xe tăng và máy bay yểm trợ tấn công vào làng Mai Xá. Lực lượng du kích và bộ đội địa phương, chủ lực đã đánh trả quyết liệt các mũi tấn công của giặc, diệt 80 tên, bắn cháy 3 xe tăng, bắn rơi một máy bay lên thẳng. Tiểu đội nữ du kích – 12 cô gái làng Mai đã bám trụ nhiều ngày đêm đánh địch, cứu thương, nấu cơm đưa vào cho bộ đội. Đó là 12 cô nông dân tuổi đôi mươi, chất phác hiền lành nhưng đã lập công lớn, càng đánh càng hăng, càng thông minh và mưu trí, đã trở thành những tấm gương sáng cho tuổi trẻ làng Mai. Nhà thơ Phương Nam  có câu thơ ca ngợi:
“…Ơi em Mai Xá đá gan liều
Tàn bạo nào lay chuyển xóm thôn
Mỗi trận giặc về em đứng đó
Bao nhiêu máu đổ bấy anh hùng…”
Ngày 23/1/1968, theo sự huy động của cấp trên, nhân dân xã Gio Hà đã dỡ 1000 nóc nhà, trong đó làng Mai đóng góp hơn 300 nóc nhà, để làm hầm trú ẩn và giao thông hào  cho du kích và bộ đội đánh giặc.
Để ngăn chặn tàu quân sự tiếp tế của Mỹ – ngay trên dòng sông Cửa Việt - Đông Hà, cấp trên chủ trương đóng cọc tre làm rào chắn tại ngã ba Gia Độ. Các xã đã huy động được hàng ngàn cọc tre tươi, trong số đó nhiều cọc do dân và quân Mai Xá Chánh đóng góp, và chỉ sau một đêm đã đóng xong đập ngầm dưới sông. Nhờ có đập và rải thủy lôi dày đặc trên sông nên quân dân ta đã thắng lớn. Trận tập kích tàu giặc trên sông ở ngã ba Gia Độ coi như chiến thắng Bạch Đằng trên sông Thạch Hãn  và sông Hiếu.
Tổng kết cuộc tấn công và nổi dậy năm 1968, xã Gio Hà đã được Nhà nước tặng hai Huân chương giải phóng. Nhà thơ Phương Nam lại có thơ khen:
“…Ta nghe cuồn cuộn dòng Cửa Việt
Nhấn chìm bao tàu giặc đáy sông
Gio Hải, Gio Hà, Cam Giang Oanh liệt
Luỹ tre xanh dàn thế trận Bạch Đằng…”
V.4. Cuối năm 1968 – 1972. 
Thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta đầu năm 1968 làm phá sản chiến tranh cục bộ, Mỹ phải thay đổi chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh ”, áp dụng biện pháp bình định cấp tốc, ra sức lập ấp chiến lược. Giữa năm 1968, Mỹ - nguỵ tăng cường các phương tiện chiến tranh hiện đại, vũ khí hoá học, chiến tranh điện tử...phản kích quyết liệt nhằm “quét và giữ”, tiến hành “bình định” và “ngăn chặn từ xa” để chiếm lại vùng đất đã mất. Chúng dùng chiến tranh tâm lý, gọi loa chiêu hồi.… và cho máy bay thả bom napan đốt cháy từ lòi Mai Xá đến Kỳ Lâm. Gio Hà bị huỷ diệt. Toàn xã không còn một bóng cây, nóc nhà. Sau đó, Mỹ cho xe san ủi làng Mai Xá làm căn cứ quân sự. Đại bộ phận bộ đội, chủ lực ta rút ra bờ Bắc sông Bến Hải. Du kích ta bật khỏi địa bàn, phải ra Thuỷ Khê, Cẩm Phổ… củng cố lực lượng; bổ sung  đội ngũ. Cuối tháng 6/1968, Mỹ nhảy vào đóng chốt ở các làng Mai Xá và Mai Xá Thị.
Cuối năm 1968 - đầu năm 1969, địch “xúc” dân Mai Xá vào trại tập trung Quán Ngang, Quán Ngang là một bãi cát rộng, không cây cối, bên cạnh đường 1A. Quyết tách dân ra khỏi ảnh hưởng của cán bộ, du kích, chúng tiếp tục bắt thanh niên đi lính, vào phòng vệ dân sự, tiếp tục “tố Cộng”, vì vậy hoạt động của cán bộ, du kích gặp nhiều khó khăn khi liên lạc với quần chúng trong trại tập trung.
Trước tình hình phức tạp đó, huyện uỷ Gio Linh đã đề ra những chủ trương, biện pháp mới: tổ chức các đội vũ trang tinh, gọn, thọc sâu vào trại tập trung để diệt ác, trừ gian, hỗ trợ quần chúng đấu tranh đòi về làng cũ, chống đôn quân bắt lính. Để thực hiện tốt các chủ trương của huyện, đội du kích xã phối hợp với bộ đội địa phương huyện (đội 3 và đội 4) đánh địch, mở đường vào ấp chiến lược Quán Ngang, bắn chết 23 lính cộng hoà, bảo an; cùng với bộ đội chủ lực, đánh chìm 5 tầu địch  trên sông Cửa Việt
Ngày 11/9/1969, đội công tác chính trị cùng với bộ đội địa phương vào khu tập trung Quán Ngang  làm lễ truy điệu Hồ Chủ Tịch. Ngày 20/9/69, đội nữ du kích phục kích bắn chết hơn 15 tên địch, thu 10 súng. Đội du kích cùng với bộ đội địa phương bắn chết tên ác ôn trốn thoát lâu ngày và bắt một tên mật báo cải tạo. Hơn 500 dân ở trại tập trung nổi dậy đấu tranh đòi dân sinh, giải quyết nhà ở, công ăn việc làm… buộc địch phải cấp 4500 tấm tôn lợp nhà và 60 tấn gạo để ăn. Phối hợp với mặt trận Đường 9, Nam Lào, đảng viên và quần chúng Mai Xá vận động bà con có con em đi lính trở về với cách mạng, nhiều binh lính của Mỹ - nguỵ đã bỏ ngũ về nhà. Du kích và cán bộ đã rải hàng ngàn truyền đơn ca ngợi chiến thắng ở Đường 9, Nam Lào.
ở ấp chiến lược, dù địch kiểm soát rất gắt gao nhưng nhân dân vẫn che chở cho du kích và cán bộ, đào nhiều hầm bí mật để nuôi cán bộ, đặt hòm thư liên lạc với cán bộ ở ngoài ấp chiến lược. Tháng 5/1971, đấu tranh của quần chúng lên cao, tiêu diệt nhiều lực lượng của địch, mở rộng vùng giải phóng.
Đêm 29/2/1972 du kích Mai Xá phối hợp với đội đặc công bắn chết 20 lính, thu 40 khẩu súng, bắt sống nhiều tên. Ngày 31/3/1972, dân làng Mai Xá đã quét sạch quân Mỹ – Ngụy, từ giã Quán Ngang trở về làng cũ, giải phóng quê hương. Mai Xá Chánh phấn khởi xây dựng lại quê hương, bảo vệ làng và tiếp tục làm nhiệm vụ ở tiền phương.
V.5. Thời kỳ 1972 – 1975:
Đây là thời kỳ ác liệt không kém gì năm 1968, vì Mai Xá nằm trên hai tuyến đường thuỷ quan trọng: từ Cửa Việt lên Đông Hà vào Thành Cổ và từ sông Hiền Lương vào theo sông Cánh Hòm. Lương thực, súng đạn tiếp tế từ miền Bắc đa số đi theo sông Cánh Hòm, làng Mai Xá là trạm tập kết. Do làng rộng, nhiều cây cối, nhiều tuyến hầm, hào, nên cất giấu lương thực vũ khí tốt, làng Mai cũng là điểm dừng của các đơn vị chủ lực chuẩn bị đánh thành cổ. Cách thành cổ chưa đầy 20km, từ làng Mai hành quân độ 4 tiếng là đến nơi tập kết, Làng Mai cũng là trạm trung chuyển đưa thương binh về phía sau. Đình, Lòi làng Mai là nơi cất giấu lương thực, súng đạn. Vì thế bọn địch tập trung bắn phá làng Mai suốt ngày đêm với đủ loại súng, đủ loại máy bay. Chúng ném bom toạ độ, bổ nhào, dùng B52 rải thảm nhằm huỷ diệt làng Mai, quyết ngăn chặn lực lượng chi viện từ miền Bắc  vào thành cổ Quảng Trị và các mặt trận khác phía trong. Có đêm, máy bay B52 rải 5 đợt  bom xuống xã Gio Hà và bắn hàng ngàn đạn pháo từ hạm đội 7 vào, san phẳng nhà cửa, đình chùa, làm nhiều người chết và bị thương. ở Mai Xá, nhà chị Trương Thị Quế chết cả 5 mẹ con, nhà ông Bùi Thước chết cả 5 ông cháu, hàng trăm nóc nhà cháy, hàng trăm trâu bò chết thui, bình quân mỗi nhà nhận một quả bom… nhưng bất chấp hiểm nguy, cán bộ, bộ đội đã huy động thuyền bè chở được hàng trăm lượt vũ khí, đạn dược và bộ đội từ Mai Xá vào chi viện cho Thành cổ, mai táng hàng trăm liệt sỹ, chuyển hàng trăm thương binh về tuyến sau. Dân Mai Xá đào hàng trăm hầm chữ A, hàng trăm mét giao thông hào, hàng trăm hầm trú ẩn cá nhân…
Suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, nhân dân, cán bộ du kích… làng Mai Xá Chánh đoàn kết một lòng, đấu tranh anh dũng. Dân làng Mai Xá Chánh giữ vững khí tiết của người cách mạng, lập chiến công bảo vệ làng xóm, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ, góp phần giải phóng quê hương đất nước.
Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, nhiều cán bộ cấp trên như Bí thư huyện uỷ Lê Đình Quế , phó Bí thư huyện uỷ Nguyễn Đức Dũng, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến huyện Gio Linh Nguyễn Thư, cán bộ đặc công thủy Nguyễn Văn Tình, cán bộ quân tình báo Vàng … đã bám trụ ở làng Mai Xá, được bà con nuôi dấu, che chở, sau ngày giải phóng đã thành cán bộ cấp cao của tỉnh và trung ương.
Xã Gio Hà được Đảng, Chính phủ tặng thưởng danh hiệu Xã anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Làng Mai Xá có nhiều người được tặng thưởng các Huân, Huy chương cao quý: Ba cụ lão thành Cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập. Hàng trăm cán bộ, bộ đội, du kích, nhân dân được tặng thưởng Huân chương, Huy chương các loại.
Hàng trăm thanh niên vào Vệ quốc đoàn, vào lính Cụ Hồ, đi lính giải phóng. Hàng trăm cán bộ, du kích bám đất, bám làng, chiến đấu gan dạ, dũng cảm lập nhiều chiến công, trở thành “dũng sĩ diệt Mỹ”. Làng Mai Xá Chánh có:
- 15 Đại tá, 4 Thượng tá quân đội nhân dân, công an vũ trang…
- 6 Bà mẹ anh hùng, 7 cô gái thông minh, gan dạ, dũng cảm lãnh đạo phong trào đấu tranh .
- Tiểu đội nữ du kích 12 người từng làm cho giặc Mỹ khiếp sợ.
- Hàng trăm liệt sĩ và nhân dân ngã xuống trước mũi súng quân thù.
- 2 tú tài Hán học, 1giáo sư, 2 phó giáo sư, 15 tiến sĩ và 4 nghiên cứu sinh đang làm luận án tiến sĩ
- 789 người có trình độ văn hóa từ cao đẳng đến thạc sĩ, 3 nhà giáo ưu tú, 2 nghệ sĩ ưu tú, 1 thầy thuốc ưu tú.
1134 gia đình, 4783 nhân khẩu (kể cả người sống ở làng và các địa phương khác).
VI. gương mặt các gia đình tiêu biểu
* Gia đình  ông Trương Quang Phiên, cán bộ lão thành Cách mạng:
Ông Trương Quang Phiên là cháu cụ Trương Quang Cung, tham gia phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi chống Pháp. Bố ông Phiên là Trương Quang Dự cũng là dân Nho học, ông Dự có công xây dựng đàn Văn thánh của làng.
Quá trình hoạt động xã hội và tham gia Cách mạng của ông Trương Quang Phiên như sau:
Năm 1928, sau khi học xong lớp sư phạm ở Huế, được bổ làm giáo viên tiểu học ở Vĩnh Linh, tham gia Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và làm thư ký tổ Gio Linh.
Năm 1930: tham gia hoạt động cho Đảng cộng sản Đông Dương.
Năm 1930 – 1933 : Bị tù ở nhà lao Quảng Trị.
Năm 1933 – 1935 : Quản thúc tại gia, mở lớp học tư tại “Tiên Việt Học Hiệu”, đào tạo một thế hệ thanh niên nòng cốt cho phong trào Cách mạng địa phương. Hoạt động văn hoá sôi nổi, xây dựng đội văn nghệ (ca nhạc truyền thống, kịch nói), đội thể thao, mở câu lạc bộ thơ, văn. Nhà riêng là nơi tụ tập của những người hoạt động Cách mạng và các văn nghệ sỹ, nhà văn hoá yêu nước.
Năm 1936 – 1945: tham gia hoạt động truyền bá chữ quốc ngữ và các phong trào yêu nước trong tỉnh.
Năm 1945 tham gia Mặt trận Việt Minh, tổ chức hoạt động khởi nghĩa ở địa phương. Được bầu làm Chủ tịch UBND xã Mai Xá.
Đầu năm 1946: Chủ tịch UBHC huyện Gio Linh
Năm 1946 – 1948: Phó chủ tịch UBHC tỉnh Quảng Trị, Bí thư chi bộ cơ quan cấp tỉnh,
Tháng 4 năm 1948 – tháng 5 năm 1949: Chủ tịch UBKCHC Quảng Trị, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Đảng đoàn chính quyền
Cuối năm  1949 - đầu 1950: Tỉnh uỷ viên , Bí thư Đảng Đoàn, tham gia Mặt trận Liên Việt tỉnh.
Cuối 1950 đến hết 1953 Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến  hành chính Quảng Trị, Tỉnh uỷ viên,  Bí thư Đảng Đoàn chính quyền.
Năm 1954: Giám đốc Sở Tài chính Liên khu IV.
Sau ra Hà Nội công tác ở Bộ Công nghiệp.
Nghỉ hưu năm 1966, tại Hà Nội
Khi đứng đầu chính quyền Quảng Trị và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông Trương Quang Phiên thực hiện tốt sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, thu hút các tầng lớp xã hội, đặc biệt là tri thức, văn nghệ sỹ, thương gia, nhân sỹ… vào công cuộc kháng chiến. Ông quan tâm nhiều đến y tế, giáo dục, văn hoá cho địa phương. Ông có công xây dựng Bệnh viện Quảng Trị tại chiến khu và mở trường phổ thông cấp hai Lê Thế Hiếu ở chiến khu Cùa.
Được Nhà nước truy tặng huân chương Độc lập năm 2009.
Phu nhân của ông Phiên là bà Lê Thị Huyền người nhanh  nhẹn, phúc hậu, hiếu thảo. Trước Cách mạng tháng 8 đã tham gia bán hàng gây quỹ cho chi điếm Hưng nghiệp xã của tổ chức cách mạng. Bà sống đến 102 tuổi. Con trai cả là Trương Quang Ngô, học giỏi, đã từng làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền ở Ba Lan. Cháu Trương Quang Hoài Nam con ông Ngô hiện là Vụ trưởng Bộ Công nghiệp. . Người con trai thứ 2 là Trương Quang Đệ đã từng làm cán bộ giảng dạy đại học trong nước và nước ngoài, có hai con là tiến sỹ.
 * Gia đình ông Trương Khắc Khoan (Tú Khoan), cán bộ lão thành cách mạng
Ông Trương Khắc Khoan là hội viên “ Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội”, gọi tắt là “Thanh Niên”. Giữa năm 1927, chi bộ Thanh niên Quảng Trị phát triển thành 2 chi bộ, chi bộ Thanh niên của  huyện Gio Linh có 5 hội viên, trong đó có ông Trương Khắc Khoan. Ông Khoan và bà Hoàng Thị ái cùng hoạt động từ năm 1927, đến năm 1929 xây dựng thêm cơ sở mới và “chi điếm Hưng Nghiệp xã” để gây quỹ cho hội.
Cuộc rải truyền đơn của Đông Dương Cộng sản Đảng từ Quảng Trị đến Bình Thuận gây ảnh hưởng lớn về Cánh mạng trong nhân dân. Khâm sứ Trung Kỳ đã ra lệnh cho mật thám lùng sục, bắt bớ hội viên “Thanh niên”. Ông Trương Khắc Khoan bị bắt và kết án 11 năm tù, đầy lên nhà tù Lao Bảo, mang số tù 433. Đầu năm 1940, mãn hạn tù trở về quê hương nhưng ông bị quản thúc tại địa phương 3 năm. Sau đó một thời gian, liên lạc được với huyện uỷ Gio Linh, ông bắt tay hoạt động phong trào Việt Minh trong thời gian phát xít Nhật nhảy vào Việt Nam
Ngày 23/8/1945, huyện Gio Linh thành lập chính quyền lâm thời. Ông Trương Khắc Khoan được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban huyện kiêm Uỷ viên Tư pháp. Được cử lên Hương Hóa tổ chức nhân dân nổi dậy, ngày 25/8/1945 huyện Hương Hoá đã cướp được chính quyền. Năm 1948, ông chuyển lên công tác tại Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Trị.  Ngày 16/7/1948, ông hy sinh trong trận chống càn tại chiến khu Ba Lòng, tỉnh Quảng Trị. Gia đình ông được cấp bằng “Tổ quốc ghi công”. Ông được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng ba. Năm 2000, ông được truy tặng Huân chương Độc lập hạng ba.
Con trai thứ nhất: Ông Trương Khắc Hoằng tham gia hoạt động cách mạng sớm, bị giặc Pháp bắt giam trước cách mạng tháng 8, ông được cử làm Chủ nhiệm Việt minh đầu tiên của làng Mai, rồi vào bộ đội, đi học lớp võ bị Trường Lục quân ở Sơn Tây.
Con trai thứ 2: Ông Trương Khắc Trại, sớm được kết nạp Đảng ở chi bộ làng Mai. Được ra Bắc học, tốt nghiệp đại học ông vào quân đội, Sau một thời gian làm việc ở Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô (cũ), là Đại tá Cục trưởng Cục Xây dựng – Vật liệu Bộ Quốc phòng.
Con cháu ông Khoan đều tham gia công tác cách mạng, có trình độ văn hoá , tham gia chiến đấu và sản xuất tốt…
* Gia đình ông  Trương Quang Côn (Khoá Thặng)
Giác ngộ Cách mạng từ năm 1927, ông Côn tham gia hoạt động trong phong trào Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội từ năm 1928 đến năm 1929 ở  huyện Gio Linh và tỉnh Quảng Trị. Năm 1929, tỉnh Quảng Trị có phong trào thanh niên hoạt động mạnh như tuyên truyền, rải truyền đơn, có ảnh hưởng lớn trong vùng. Ngày 13/10/1929, khâm sứ Trung Kỳ ra lệnh tìm bắt các hội viên Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Cụ bị bắt. Toà án Nam Triều tỉnh Quảng Trị đã đưa 37 hội viên ra xét xử. Cụ Trương Quang Côn bị kết án 11 tháng tù và bị giam ở nhà tù Lao Bảo, Quảng Trị. Ra tù, bị quản thúc tại quê ba năm, cụ về quê làm ruộng và tiếp tục hoạt động Cách mạng dưới hình thức kinh doanh tài chính cho tỉnh uỷ Quảng Trị… Ông tham gia khởi nghĩa ở xã và huyện… được cử giữ chức Chủ nhiệm Việt minh xã đầu tiên. Đêm 1/9/1945, ông đưa một đoàn cán bộ Việt Minh xã đi thuyền lên tỉnh Quảng Trị dự lễ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng  hoà, ngày 2/9/1945.
Vì bị tù đày gian khổ nên sức khoẻ của cụ Côn ngày một kiệt sức, lâm bệnh nặng và mất năm 1948. Ngày 12/3/2008, ông được truy tặng Huân chương Độc lập hạng ba.
Gia đình ông Trương Quang Côn thuộc loại khá giả của làng Mai. Con cháu đa số được học hành tử tế. Nhiều người là bác sĩ, kỹ sư… ông Trương Quang Tứ là Bí thư Chi bộ đầu tiên của xã và là  một thương binh có nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến cứu nước và trong sản xuất ở thời kỳ đổi mới của đất nước.
* Gia đình bà Trương Công Thị Bôi
Chồng mất sớm, một mình bà Trương Công Thị Bôi nuôi 8 người con khôn lớn. Người nào cũng có gia thất đàng hoàng, cho bà nhiều cháu chắt. Xuất thân là nhà nông. từ một gia đình bình thường nghề chính là làm ruộng, về sau trở thành một gia đình giàu có nhất nhì làng, do bà có đầu óc tổ chức, biết tính toán, nắm được thời vụ, kỹ thuật… nên điều hành tốt những người giúp cầy cấy, thu hoạch. Đàn trâu có bốn năm con, và một đàn bò mấy chục con. Những ngày cao điểm về gieo trồng, cầy cấy, gặt hái phải thuê mướn vài chục nông dân có trình độ sản xuất cao. Thu hoạch hàng năm tới mấy nghìn thúng lúa (1 thúng bằng 12kg). Sẵn quan hệ tốt với nhà giàu các làng  khác, những năm hạn hán mất mùa, bà đã vay họ lúa về cho dân, giúp khắc phục nạn đói cho dân làng.
Con trai bà là Trương Văn Táo sớm tham gia Cách mạng, đã bị Pháp bắt giam, nhưng khi được ra tù về làng đã mở quán bán hàng “Chi Điếm Hưng Nghiệp Xã” – gây quỹ cho Cách mạng. Sau Cách mạng tháng 8, ông là cán bộ công an của tỉnh Quảng Trị, nhưng vì sức yếu nên về làng nghỉ và làm nghề thuốc bắc, chữa bệnh cho dân làng. Bà Trương Công Thị Kinh, vợ ông là nông dân. đã tích cực tham gia hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: trong nhà có hầm bí mật nuôi cán bộ, hầm có nhiều ngách, hai cửa ra vào kín đáo. Không chỉ là nơi liên lạc của cán bộ, bộ đội, nhiều bộ đội chủ lực, dân quân du kích đã ăn, ở tại nhà bà. Là cơ sở Cách mạng tin cậy, bà đã cứu được nhiều cán bộ du kích thoát chết như ông Vàng bộ đội  tình báo, ông Trương Hữu Trọng xã đội trưởng, ông Lượng, ông Tráng cán bộ xã. Bà được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhì và gia đình được công nhận là cơ sở cách mạng. Con cháu bà đều làm ăn tốt, học hành giỏi, có nhiều cử nhân, thạc sỹ…
Người con trai thứ hai Trương Văn Bột là nông dân thực sự, tham gia cày, cấy, quản gia đình. Tuy làm lý trưởng, nhưng ông có công cứu làng khỏi vụ tàn sát đốt phá của giặc Nhật. Đó là lần du kích, tự vệ của làng tập ném lựu đạn từ gò ra sông. ông Trương Công Tự ném đá trúng đò của lính Nhật đi từ Cửa Việt lên Đông Hà nên lính Nhật kéo cả tiểu đội lên bờ lùng bắt kẻ ném đá. Ông Bột chạy về nhà mang quần áo lý trưởng, rồi ra gò gặp lính Nhật. Chúng hỏi ông, ông có phải lý trưởng không? Ông trả lời phải. Bọn lính lại hỏi ông biết người nào ném đá vào thuyền không? Ông trả lời không biết nhưng nhận rằng đây là thuộc làng Mai Xá, người ném phải là người làng. Lính Nhật ra lệnh sau ba ngày làng không nộp người ném đá thì sẽ đốt hết làng... Ông đồng ý và đúng trong 3 ngày đã tìm được cách giải thoát trước sĩ quan Nhật, cứu được làng khỏi bị tàn phá.
 * Gia đình ông Lê Văn Mẽn (Mục Miễn) và bà Bùi Thị Ngạnh
Thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, gia đình ông Lê Văn Mẽn gồm 4 thế hệ:
+ Thế hệ 2: ông bà Miễn sinh ra 8 con (5 nam, 3 nữ)
+ Thế hệ 3: 13 cháu (7 nam, 6 nữ)
+ Thế hệ 4: 15 chắt (7 nam, 8 nữ)
Tổng số thành viên trong gia đình : 38 người (20 nam, 18 nữ; không kể dâu, rể, cháu dâu, cháu rể...).
Các thế hệ thứ 2 và thứ 3 của gia đình đã đóng góp nhiều thành tích trong sản xuất và chiến đấu.
* Có 3 đại tá và 2 trung tá:
Đại tá Lê Đăng Việt (thời kỳ chống Pháp và Mỹ) là liệt sỹ (1)
Đại tá Lê Đăng ánh (thời kỳ chống Mỹ)
* 12 thành viên có bằng đại học trở lên (1 tiến sĩ và 1 thạc sĩ), trong đó có:
Đại tá - tiến sĩ  Lê Đăng ánh, Phó Viện trưởng Viện Đất hiếm thuộc Viện Nguyên tử Việt Nam.
Con út là Lê Thị Hoè đã tham gia tích cực trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, công tác bí mật và công khai, nhiều năm làm Bí thư chi bộ làng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh với giặc, củng cố cơ sở Đảng, củng cố chính quyền, chỉ đạo đội tự vệ, du kích đánh nhiều trận khiến giặc lo sợ, co cụm lại, không ngang nhiên đàn áp nhân dân như trước.
Liệt sĩ, đại tá Lê Việt vốn đã tham gia đội tự vệ của làng và xã rất sớm, rồi đi bộ đội, thuộc trung đoàn 95, bị tai nạn trên đường đi công tác. 
Ông cả là Lê Minh, tham gia Cách mạng trước ngày khởi nghĩa, là sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Gia đình ông Bùi Văn Thuý
Ông Bùi Văn Thuý đỗ bằng tuyển sinh, thời Pháp thuộc được dân làng Mai bầu làm lý trưởng. Song ông tham gia Hội Cứu tế đỏ – phong trào Việt Minh ở làng Mai và huyện Gio Linh. Tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở làng Mai, ông được cử làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Cách mạng lâm thời Mai Xá Chánh, và được bầu vào Hội đồng nhân dân xã Linh Hưng, làm Chủ tịch xã Linh Hưng, đảng viên Đảng Cộng sản.
Gia đình ông Thúy nhiều con trai đi bộ đội, cấp bậc cao trong quân đội. Con cháu học hành tốt, có một con trai là giáo sư – tiến sỹ. Các con ông:
– Đại tá Bùi Tô Khuyến là cán bộ tiền khởi nghĩa, năm 1946 Hiệu trưởng trường tiểu học Mai Xá - Uỷ viên Ban Giáo giới tỉnh Quảng Trị, sớm nhập ngũ, là Trưởng ban tuyên huấn trung đoàn 95... Sau là Chủ nhiệm khoa Văn hoá học Viện Chính trị – Quân sự, và từng là bộ đội tình nguyện ở Lào.
- Đại tá Bùi Thế Tâm, tham gia Cách mạng tháng 8/1945. phụ trách đội Thiếu niên cứu quốc làng Mai Xá Chánh, ủy viên Ban chấp hành Thanh niên cứu quốc xã Linh Hưng, Chánh văn phòng huyện uỷ Gio Linh – Phó Bí thư huyện uỷ...,  Chủ nhiệm Cục Hậu cần Mặt trận Đường 9 Khe Sanh  năm 1968, Đảng uỷ viên Đảng uỷ Bộ tự lệnh Trường Sơn, Cục trưởng Cục Kinh tế Bộ Quốc phòng, về hưu (hưởng lương Thiếu tướng).
Thượng úy Bùi Ngọc Thanh liệt sỹ, hy sinh năm 1966 tại chiến trường Quảng Trị - Đảng viên Đảng Cộng sản.
Giáo sư – tiến sĩ Bùi Thế Vĩnh, đã từng dạy ở trường Đại học Phương Đông (Cộng Hoà Dân Chủ Đức), rồi làm việc ở Văn phòng Trung ương  Đảng, Văn phòng Chính phủ. Hiện nay là Viện trưởng Viện Hành Chính thuộc Học Viện Hành chính Quốc gia.
Cử nhân Bùi Công Hữu, phụ trách Công ty văn hoá Quảng Ninh, Phó Chủ nhiệm công nghiệp thủ công nghiệp tỉnh Kiên Giang, Đảng viên.
Ông Bùi Luyện bị giặc bắt thủ tiêu.  
Liệt sĩ Bùi Giang Ngạn .
* Gia đình ông Trương Công Tiển (chánh Tiển)
Sinh năm Mậu Tý, ông Trương Công Tiển làm chánh tổng trong thời kỳ Pháp thuộc nhưng không có nợ máu với nhân dân. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông bị bắt giam 2 lần vì đã tham gia Cách mạng và có nhiều con, cháu đi kháng chiến. Ông mất năm 1965. Các con ông nhiều người thành đạt.
Con trai cả là Trương Công Hoán, sinh năm 1911. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, làm công an tỉnh Quảng Trị, Trưởng công an huyện Triệu Phong. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông làm Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân khu vực Vĩnh Linh. Ông về hưu ở Đông Hà.
Con thứ hai là Trương Công Địch, sinh năm 1914. Trong kháng chiến chống Pháp làm Bí thư Đảng ủy xã Linh Quang kiêm Phó Bí thư huyện uỷ Gio Linh. Năm 1955, chuyển ra công tác ở Hải Dương. Năm 1965, đi B vào Quảng Trị công tác tại Ban kinh tế của tỉnh. Năm 1968, chết vì tai nạn và được công nhận là liệt sĩ, có con là tiến sĩTrương Công Đờn, dũng sĩ diệt Mỹ Trương Công Thu.
Con trai thứ 3 là Trương Công Đồng, sinh năm 1916. Trong kháng chiến chống Pháp làm Trưởng ty Văn hoá - Thông tin tỉnh Bắc Giang. Trong kháng chiến chống Mỹ, làm Bí thư huyện uỷ Gio Linh, Trưởng ban tuyên huấn tỉnh uỷ Quảng Trị. Từ 1965 đến năm 1974, làm uỷ viên phái đoàn Đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hà Nội.
Con thứ 4 là Trương Công Huỳnh, sinh năm 1922, tham gia Cách mạng trước năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp làm Phó Ty công an tỉnh Quảng Trị, Trong kháng chiến chống Mỹ, làm Phó ty Công an tỉnh Quảng Bình. Năm 1963, đi B và T4 (là tiền thân ngành công an thành phố Hồ Chí Minh), làm Trưởng ban điệp báo Phân khu 5, Thường vụ Thành ủy thành phố Sài Gòn Gia - Định. Năm 1968, vì có chỉ điểm nên bị bắt giam , giặc tra tấn đến chết ở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Con trai thứ 5 là Trương Công Tiêu , sinh năm 1926, sớm tham gia bộ đội, được phong quân hàm Đại tá, về hưu được hưởng lương Thiếu tướng, là một trong năm người được Nhà nước công nhận là “Cán bộ khởi nghĩa” của làng Mai Xá Chánh.
* Gia đình ông Trương Hữu Tạo
Có ba con trai, đều tham gia kháng chiến:
Con cả Trương Hữu Thông là giáo viên thời Pháp thuộc. Trong kháng chiến chống Pháp là cán bộ của Uỷ ban kháng chiến huyện Gio Linh. Trong thời kỳ chống Mỹ cũng tham gia công tác Cách mạng, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất.
 Con thứ hai là Trương Hữu Tần, tham gia Cách mạng trước tháng 8/1945,  bán hàng cho “Chi điếm Hưng nghiệp xã” gây quỹ hoạt động Cách mạng, là Đảng viên, Trưởng ban thông tin, tuyên truyền xã Linh quang, bị địch bắt giam rồi thủ tiêu, được công nhận là liệt sĩ, nay chưa tìm thấy mộ.
Con thứ ba là Trương Hữu Thảo, 50 năm làm nghề dạy học, Hiệu trưởng cấp 3 Bổ túc van hóa thiếu niên và trường PTTHDL Nguyễn Huệ, Hà Nội, là nhà giáo ưu tú, nhà thơ... Nhiều học sinh của ông trưởng thành, có người là Uỷ viên Bộ chính trị, có người là Chủ tịch, Phó chủ tịch tỉnh, có nhiều người là tướng, tá, giáo sư, tiến sĩ.
Các cháu ông Tạo đều được học hành tử tế, cháu ngoại Trương Thị Hai là Tỉnh ủy viên bí mật tỉnh Quảng Trị, cháu Trương Công Đờn là Tiến sĩ.
* Gia đình ông Cửu Diêu:
Cách đình không xa về phía Nam là nhà ông Cửu Diêu (Bùi Diêu), nhà vào lớp trung lưu, đông con. Các con đều tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ: ông Hưu tham gia chống Pháp rất sớm, ông Liệu được ra miền Bắc học đỗ bác sĩ, đi B lâu năm, sau ra Bắc, làm Trưởng khoa Vật lý trị liệu bệnh viện Hữu Nghị, là thầy thuốc ưu tú. Ba con gái đều tham gia công tác phụ nữ thôn, xã: Chị Bùi Thị Lịch ra Bắc học tập, công tác có nhiều thành tích, con cái chị đều trưởng thành, học tập, công tác tốt, đều là cử nhân, kỹ sư.
* Gia đình ông Trương Quang Kỉnh:
Gia đình vào loại trung bình trong làng, con không đông lắm. Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, vợ ông có nhiều thành tích đóng góp vào việc bảo vệ chính quyền Cách mạng, bảo vệ làng xóm.
Con gái Trương Thị Hưng là một cô gái tiêu biểu về thông minh, gan dạ, đã lập được nhiều chiến công. Dân làng thường gọi là “Cô một” trong bảy cô gái của làng đã vào sinh ra tử, lãnh đạo chi bộ, chính quyền, tự vệ của làng, của xã chống giặc Mỹ và bè lũ tay sai. Cô được đề bạt làm huyện đội phó, lập nhiều chiến công,  hiện nay tuổi già sống ở thành phố Huế.
Con trai Trương Đình Thạc được ra Bắc học tập, học Đại học ở Pháp và trở thành Tiến sĩ. Thông minh, học giỏi, ông Thạc công tác ở Viện hóa, nay về hưu ở Hà Nội, vợ là Hiền bác sĩ, có 2 người con đều học giỏi.
* Gia đình ông Lê Nu:
Có con trai là Lê Côn, du kích thông minh, đánh giặc giỏi. Sau hòa bình làm Chủ nhiệm Hợp tác xã. Cháu ông Nu cũng tham gia du kích đánh giặc rất gan dạ. Hiện nay  anh Lê Thái làm Bí thư chi bộ Đảng làng Mai Xá Chánh

* Gia đình ông Trương Công Mỹ (Cửu Mỹ):
Sau nhà ông Cửu Diêu là nhà ông Trương Công Hy, con ông Cửu Mỹ. Là một nhà Nho học thông minh, ông thường viết câu đối cho bà con nhiều nơi trong huyện. Ba con trai là Trương Công Hy, Trương Công Cương, Trương Công Tài đều  có trình độ học vấn cao, tài kinh doanh , rất giàu có. Ông Hy làm thầu khoán thời Pháp thuộc, sau buôn bán, vận chuyện hàng hóa khắp nơi. Có con trai là Trương Công Nghệ Tiến sĩ Toán, con gái là Tân Nhân, nghệ sĩ ưu tú. Trong kháng chiến chống Mỹ, các ông Hy và Cương sống trong vùng tạm chiến, buôn bán, làm thầu khoán, nhà giàu mở Công ty Bảo hiểm. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, địch đóng đồn trên nền đất nhà ông Hy.
* Gia đình ông Cửu Phú.
Gia đình làm ruộng, vào loại bậc trung của làng, có nhiều con trai.
Con trai đầu là Trương Khắc Tá, hoạt động Cách mạng bí mật, bị giặc giam một thời gian. Chuẩn bị khởi nghĩa, ông tham gia tự vệ, dẫn đầu đoàn quân lên cướp chính quyền ở huyện Gio Linh, sau vào Vệ quốc đoàn, làm huyện đội trưởng, ông là một trong 5 người của làng được công nhận là “cán bộ tiền khởi nghĩa”, sống gần 100 tuổi thì mất. Ông có con gái là Trương Thị Hai (Tường), một cốt cán của xã, huyện, gây dựng phong trào kháng chiến chống Mỹ, được bầu làm Tỉnh uỷ viên bí mật của tỉnh Quảng Trị, Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh. Ba con trai và con gái của ông Tá đều tham gia kháng chiến chống Mỹ, hai người là đại tá, thượng tá của lực lượng công an nhân dân.
Con trai thứ hai là Trương Khắc Đào trong thời kháng chiến chống Pháp làm Bí thư Chi bộ, trong thời kháng chiến chống Mỹ lập được nhiều thành tích, tốt nghiệp Đại học, làm cán bộ tỉnh.
Con trai thứ ba Trương khắc Ba tập kết ra Bắc, tốt nghiệp Đại học, về làm Hiệu trưởng cấp 3 tỉnh Quảng Trị, sau làm Trưởng Phòng Giáo dục huyện ở thành phố Hồ Chí Minh
* Gia đình ông Xạ Nghĩa:
Vào loại trung lưu, gia đình có người biết kéo đàn nhị và thổi kèn trong các buổi lễ. Ông có 2 con trai tham gia Vệ quốc đoàn sớm là ông Quyền và ông Trành. Con ông Quyền là Trương Công Thế, Đại tá - Phó tư lệnh vùng 3 Hải quân. ông  Trành ở trung đoàn 95, gan dạ, đánh giặc giỏi, nghỉ hưu tại thành phố Đồng  Hới.
* Gia đình ông Trương Khắc Tặng:
Gia đình làm nghề nông, đủ ăn. Ông Tặng tham gia kháng chiến tích cực. Con cái của ông đều trưởng thành. Con trai là Trương Khắc Tài đỗ cử nhân, làm giám đốc công ty bảo hiểm của tỉnh.
* Gia đình ông Cửu Đỉnh:
Làm ruộng, có học, ông Cửu Đỉnh là người thông minh, ăn nói sắc sảo. Ba con trai, học giỏi là:
Con cả ông Trương Công Hốt là người học giỏi, đàn hát hay. Những tháng nghỉ hè, ông về làng dạy học, dạy rất hấp dẫn.
Con thứ 2 ông Trương Công Cẩn, làm nghề dạy học. Đầu Cách mạng tháng 8, ông phụ trách đội tự vệ.
Con thứ 3  ông Trương Công Ngoãn cũng học giỏi, có tài hoa. Những năm đầu Cách mạng tháng 8/1945, ông phụ trách đội thiếu niên và nhi đồng của làng,  phụ trách tờ báo tường của thanh niên. Sinh hoạt đội dưới sự dìu dắt của ông rất vui, sôi nổi, khó quên. Kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập Vệ quốc đoàn .Con gái Trương Thị Con (Trương Công Thị Hài) gần 100 tuổi, sống với con ở thành phố Đà Nẵng; trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, bà đã lập được nhiều công lớn, được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến.
* Gia đình ông Xạ Khanh:
Sau lưng nhà ông Cửu Phú là nhà ông Xạ Khanh (Trương Quang Khanh), biết xem tướng số, xem địa lý giỏi. Ông có con trai là ông Trương Quang Sãi, nhanh  nhẹn, thông minh. Sớm vào Vệ quốc đoàn, chịu khó học tập, rèn luyện được phong hàm Đại tá, nhà giáo ưu tú. Khi học Đại học, có nghiên cứu về thần học, nắm được thiên văn, địa lý… nên khi về hưu ông giúp nhân dân chữa bệnh, xem mồ mả,  nhà cửa. Em trai là ông Trương Quang Trần, làm Chủ tịch công đoàn Công ty cao su Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Hai con trai ông Trần làm ăn tốt, có triển vọng. Em gái ông Sải lấy chồng người ở làng là Bùi Văn Bỉ, hiện là Trưởng làng của làng Mai Xá Chánh. Con ông Bỉ là Bùi Văn Thái làm ăn tốt, một kỹ sư xây dựng kinh doanh giỏi, đã góp tiền xây đình và các công trình khác của làng.

* Gia đình ông Trương Hữu Tâm:
Sau nhà ông Trương Quang Phiên là nhà ông Trương Hữu Tâm, gia đình nông dân, có con trai là Trương Hữu Trường tích cực tham gia công tác Cách mạng, được bầu làm Bí thư Đảng uỷ xã Gio Hà, sau công tác ở huyện Gio Linh, về hưu làm Bí thư chi bộ làng Mai Xá Chánh, được cử làm Trưởng ban biên tập cuốn Lịch sử làng và lịch sử Đảng bộ xã Gio Mai. Cháu nội ông Tâm là Trương Thị Bé, một giáo viên dạy toán giỏi, luyện thi Đại học nổi tiếng ở thành phố Đông Hà.
* Gia đình ông Trương Công Trác (Phấn):
Con ông là Trương Công Trọng tham gia 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông Trọng vào Vệ quốc đoàn rất sớm vào sinh ra tử. Trong  kháng chiến chống Pháp, gia đình đã giúp đỡ cán bộ, tự vệ tích cực, là đầu mối giữa dân làng với cán bộ hoạt động bí mật. Tập kết ra Bắc, ông Trọng được học tập và công tác và trở thành cán bộ tốt của Đảng và Chính phủ.
* Gia đình bà Hôi:
Gia đình bà Hôi sinh ra một người con gan dạ, anh hùng là ông Trương Công Hám. Là một tự vệ thông minh, xông xáo, đã đặt mìn, bom ở bến đò Kênh, Quai Mọ giết được nhiều địch, ông Hám đã liều mình nhảy lên hầm bí mật, đánh lạc hướng quân giặc để cứu Chủ tịch và một số cán bộ xã, chính nhờ vậy nhiều tài liệu quan trọng khỏi rơi vào tay giặc. Dân làng rất tôn sùng, gọi ông Hám là ông“Lê Lai”.

* Gia đình ông Trương Hữu Que.
Là một gia đình nông dân nghèo đông con, ông Trương Hữu Que rất gan dạ, khi bị giặc Pháp giam ở đồn Nhỉ Hạ (Gio Linh), chúng tra tấn cực kỳ dã man, trói cả 2 tay, 2 chân treo ngược lên xà nhà nhưng ông vẫn không khai, chúng đành phải thả ông về nhà. Hai bàn tay, 2 bàn chân đều thối rữa, nên một thời gian sau ông chết. Cháu nội là ông Trương Hữu Bình sau khi đi chiến trường K về, tham gia sinh hoạt ở địa phương, giữ chức vụ Chủ tịch UBND xã, Bí thư Đảng ủy xã nhiều nhiệm kỳ.
* Gia đình ông Thủ Hoằng (Trương Công Hoằng)
Làm nghề nông với quy mô lớn, giàu nhất, nhì làng Mai, nhà ông Thủ Hoằng có nhiều ruộng tư, công. Đàn trâu, bò có vài chục con, ngày mùa người làm lên đến mấy chục người. Trước Cách mạng tháng 8/1945, hàng năm thu về gần 1500 thúng lúa.   Giàu có là nhờ biết cách làm ăn, biết cách điều hành, nắm được thời tiết để gieo hạt, cấy lúa…Nhờ làm ăn phát đạt nên cũng giúp được nhiều dân làng, tạo điều kiện cho nhiều nông dân nghèo có nơi làm ăn, ổn định được cuộc sống gia đình.
Con ông là ông Trương Công Thú, làm  trưởng làng Mai Xá  một thời gian dài, đóng góp nhiều vào việc xây dựng làng văn hoá, nếp sống văn minh, cách làm ăn, sinh sống của dân làng, đề xuất xây lại đình, chùa của làng.
* Gia đình ông Trương Quang Biền (tức Trợ Biền)
Trợ Biền là một người có học thức, ông dạy trường làng, trường huyện, nhiều con cháu làm ăn khá giả. Con cả là ông Trương Quang Minh được học ở Đức, thông minh, học giỏi, tốt tính, về nước ông làm ở Viện hoá. Con ông cũng học giỏi;
Con trai thứ là ông Trương Quang Trung làm đến Vụ trưởng, sau ngày giải phóng cũng tích cực giúp làng một số việc về kinh tế, sản xuất…
Ông Trương Quang Thiện là em ông Trợ Biền, tham gia phong trào Việt Minh sớm, tập kết ra Bắc.
* Gia đình ông Cửu Đại (Trương Công Đại),
Gia đình tương đối giàu, ông Cửu Đại chuyên làm nghề nông, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đạt tới chức cửu phẩm.
Khi con đến tuổi đi học, thường mời thầy về nhà dạy. Vợ là Trương Hữu Thị Luận cũng hoạt động xã hội tích cực. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bà là một đảng viên hoạt động bí mật. Ông có 2 con trai, con cả là Trương Công Ngô bị giặc Pháp bắt, ngồi tù ở đồn Nhỉ Hạ, bị tra tấn dã man rồi chúng bắn chết.
Người thứ hai ông Trương Công Nghị tập kết ra Bắc. Được Nhà nước cho ăn học, nhờ nỗ lực, quyết tâm, ông tốt nghiệp Đại học được cấp bằng kỹ sư. Trước khi về hưu ông là Phó Tổng giám đốc Công ty dệt may Hà Nội.
* Gia đình ông Chánh Chài (Trương Quang Chài)
Là một gia đình đặc biệt, dù làm Chánh tổng nhưng nhà ông vẫn nghèo. Sau Cách mạng tháng Tám ông tham gia công tác xã hội, làm Chủ nhiệm Việt minh. Hai con gái tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ rất dũng cảm, gan dạ, lập được nhiều công:
Bà Trương Thị Bền là đảng viên, làm công tác phụ nữ, nhiều lần bị bắt, tra khảo dã man nhưng khi ra tù chị vẫn tiếp tục hoạt động trong vòng giám sát của kẻ thù. Năm 1973, bà Trương Thị Bền đã phát biểu với đồng chí Tố Hữu về dự mít tinh với xã Gio Hà mừng sự kiện Hiệp định Paris đã đựơc ký kết:
…… “gan Mai Xá như đá Hảo Sơn”
Con gái bà Trương Thị Bình và người con rể là Khải, cũng là những du kích, những tình báo viên gan dạ.
Bà Trương Thị Con là em của bà Bền, làm dâu nhà ông Lê Miễn, chồng đi bộ đội, chị ở nhà. Ngoài việc chăm lo gia đình, chị cũng tham gia ủng hộ kháng chiến. Trong một buổi tối, dưới ánh trăng lờ mờ, đang đi quyên góp thuốc, gạo, tiền cho thương binh… thì chị bị giặc bắn chết.
* Gia đình ông Bộ Luân
Gia đình vào loại trung lưu, ông được học Nho từ sớm, thường tham gia làm câu đối ở đình làng hoặc các nơi quan trọng khác. Là người am hiểu pháp luật nên khi dân có kiện tụng đều nhờ ông giúp đỡ. Con trai ông là liệt sĩ Trương Công Hành chiến đấu gan dạ, thông minh, hy sinh trong trận đánh đồn Ba Đồn, Quảng Bình,  
* Gia đình ông Khoá Lượng (Bùi Lượng)
Vợ ông là bà Dơi làm nghề nông và buôn bán nhỏ, nhà bà có 2 con trai học giỏi, tài năng và chí lớn, đó là ông Bùi Kiểu và ông Bùi Cao. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm, hai ông đã lập công lớn. ông Kiểu học giỏi, thông minh, được ta cài vào hàng ngũ địch làm thông ngôn, đã tham gia vụ binh biến ở Đông Hà. Ông  Cao làm trinh sát bị giặc bắt giam và bắn chết ở đồn Nhỉ Hạ, hai ông đều được công nhận là liệt sỹ.
* Gia đình ông Trương Quang Hài (Khoá Hài):
Nhà không giàu nhưng kinh tế cũng khá đủ. Con trai ông là Trương Quang Niệm tập kết ra Bắc. Tốt nghiệp  đại học, ông dạy ở trường Đại học Thương mại, Trưởng phòng đào tạo, được phong danh hiệu nhà giáo ưu tú.
* Gia đình ông Bùi Toản (Khoá Toản):
Nhà ở giữa làng, xung quanh có luỹ tre già bao bọc, là một địa điểm dấu quân du kích thuận lợi. Trong  2 cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, nhiều lần gia đình ông đã tạo điều kiện cho du kích, biệt động của địa phương, của huyện nằm trong nhà để phục kích giặc, bắn pháo vào đồn, diệt được nhiều tên.
* Gia đình ông Bùi Phác (Cửu Vòi)
Gia đình trung nông, cuộc sống khá giả, có nhiều con, cháu tham gia cán bộ, bộ đội, công an:
Ông Bùi Ban tham gia cách mạng sớm, làm cán bộ xã, sau làm Phó chủ tịch UBKCHC huyện Gio Linh. Liệt sĩ Bùi Tăng, tham gia Vệ quốc quân sớm, là bộ đội tình nguyện và hy sinh tại Lào. Ông Bùi Thưởng cán bộ miền Nam tập kết, có con là liệt sĩ, được tặng nhà tình nghĩa lần đầu tại thị xã Đông Hà.
Hai cháu nội là  Bùi Văn Biên và Bùi Văn Bôn đều là đại tá công an nhân dân.
* Gia đình ông Trương Văn Ưng (Từ Ưng)
Là gia đình nông dân thực sự, ông và con cái đều tham gia Cách mạng. Con trai   là Trương Văn Trỉ vào Vệ quốc đoàn rất sớm, thuộc trung đoàn 95, chiến đấu gan dạ, nay về hưu ở quê nhà.

* Gia đình ông Tích (Bùi Tích):
Là gia đình nông dân, con cái đều tham gia Cách mạng. Con trai là Bùi Thể được ra Bắc học. Tốt nghiệp đại học, làm Phó chủ tịch UBND huyện Bến Hải, Quảng Trị
* Gia đình ông Thợ Con:
Ông làm nghề cắt tóc, con trai ông là Lê Ninh cũng là một cán bộ cốt cán của tỉnh, nay về hưu ở Đông Hà.
* Gia đình ông Từ Đinh (xâu)
Con cái đều tham gia Cách mạng, có  ông Hưng là cử nhân, làm Trưởng phòng ở Sở giáo dục Quảng Trị.
* Gia đình ông Thủ Mua (Trương Hữu Mua)
Gia đình làm nghề nông, mức sống trung bình. Là người hiền lành, được dân làng cử làm thủ bộ trong một thời gian, ông Thủ Mua có nhiều con trai, con gái. Trong một trận càn lớn của giặc Pháp, ba con ông đang cày ruộng ở cánh đồng Kênh thì bị bắt xuống chợ Hôm tra tấn rồi bắn chết cùng một số người dân vô tội khác. Các cháu của ông Mua cũng tham gia chiến đấu chống Mỹ cứu nước, xây dựng kinh tế đổi mới quê hương. ông Trương Hữu Đẳng là một người thông minh, có bằng cao học, dạy môn vật lý cấp III, nay là Phó Hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị, nghiên cứu sinh đang làm luận án Tiến sĩ. ông Quyền và ông Bình trong kháng chiến chống Mỹ đều tham gia du kích, trong hoà bình tham gia công tác hợp tác xã. Ông Trương Hữu Quế tham gia công tác sớm. Tập kết ra Bắc làm trưởng phòng tổ chức công ty cao su Quảng Bình.

* Gia đình ông Trương Công Bạch (mục Bạch)
Làm nghề nông, tương đối giàu có trong làng, ông có nhiều con trai, đều được ăn học, giác ngộ Cách mạng.
Con trai cả là liệt sĩ Trương Công Tự, sớm tham gia đội du kích của làng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, do gan dạ, dũng cảm và có trình độ nên  được cử làm Chính trị viên trung đội tự vệ xã. Khi bị giặc Pháp bất ngờ bao vây, đội du kích tìm cách chống cự nhưng tương quan lực lượng không cân sức nên phải tháo vòng vây chạy thoát, trung đội tự vệ bị tổn thất, ông Tự bị bắn gãy chân không chạy được, bị chúng bắn bồi mấy phát nên đã hy sinh.
Con trai thứ hai là Trương Công Do, sau đổi là Trương Công Diên, được trên cho vượt tuyến ra Bắc học. Năm 1950, ông tòng quân, vào học ở trường Lục quân Thanh Hóa. Khi về hưu, là Đại tá bốn sao.
Con  trai thứ 3 là Trương Công Giao, tập kết ra Bắc, được Nhà nước cho ăn học đầy đủ, là cử nhân ngân hàng. Ông làm Giám đốc ngân hàng tỉnh Quảng Trị, là một cán bộ tài ba gương mẫu, quan tâm đến tỉnh nhà, làng nước dòng họ, bà con.
Con trai thứ 4 là Trương Công Bạt, giàu có, đóng góp tiền về làng làm nhà thờ tổ rất khang trang.
*  Gia đình ông Binh Tựu (Trương Văn Tựu):
Là một gia đình nông dân nghèo, làm thuê để kiếm sống. Anh ông Tựu là ông Trương Văn Bách, đang đi gặt lúa thì bị giặc Pháp bắt giam và bắn chết. Ông Tựu trước có đi lính cho Pháp, nhưng sau Cách mạng tháng 8 – 1945, ông vào du kích. Gan dạ, mưu trí, trong thời gian làm xã đội trưởng, phong trào chống Pháp của xã Linh Quang lên cao, ông đã chỉ huy nhiều trận đánh khiến quân thù khiếp sợ, như đặt bom ở bến đò Kênh, phục kích ở Quai Mọ…ông được toàn xã tin yêu và kính trọng. Ông Tựu có cháu gọi bằng chú  là Trung tá Trương Văn Lập.
* Gia đình ông Lê Đình Quế
Là một nông dân nghèo, nhưng có chí học tập, luôn luôn phấn đấu, ông sớm được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Cuối năm 1947, ông gĩư chức Bí thư chi bộ xã. Năm 1949, ông chuyển lên huyện công tác. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, ông làm Bí thư huyện uỷ Gio Linh, cùng huyện uỷ lãnh đạo nhân dân chống luật 10/59, chống lập ấp chiến lược, đòi hiệp thương, chống khủng bộ, bảo tồn lực lượng đội quân Cách mạng…thời gian sau, khi lên công tác ở tỉnh thì bị giặc Mỹ bắt giam.
Cháu gọi ông Quế bằng ông là Lê Quốc Phong, là một người năng động, tháo vát. Thời chống Mỹ, là quân tình nguyện ở Cam pu chia, trong thời đổi mới là Giám đốc Công ty phân bón Bình Điền, thành phố Hồ Chí Minh. Phân bón của công ty Bình Điền được người trong nước và nước ngoài tin dùng. Ông Phong còn là Chủ tịch Câu lạc bộ doanh nghiệp người Quảng Trị ở thành phố Hồ Chí Minh. Câu lạc bộ này đã nhiều lần tặng nhà tình nghĩa, quỹ khuyến học cho tỉnh Quảng Trị. Ông Phong cũng là người tài trợ chính giúp làng Mai Xá Chánh làm lại Dinh Ông và đình làng Mai. Ông được Nhà nước khen là một doanh nhân giỏi.

* Gia đình ông Trương Khắc Bang
Là gia đình trung nông loại vừa, kinh tế đủ sống và cho con học tập. Con ông là Trương Khắc Kỷ, tốt nghiệp Đại học, là một cán bộ tỉnh có năng lực.
Bà Trương Thị Đỉu chị ông Kỷ, tham gia cách mạng sớm, là một cán bộ phụ nữ xã, đã từng vào ra vùng địch hậu, bám đất, bám dân để hoạt động.
Ông Trương Khắc Noãn em ông Kỷ cũng là một cán bộ được đào tạo ở miền Bắc.
* Gia đình bà Dùng
Trước nhà ông mục Bạch là nhà bà Dùng, tuy nghèo nhưng tích cực tham gia chống Mỹ cứu nước. Ông Nguyễn Sanh, sau này là Phó Chủ tịch tỉnh và ông Dũng là Phó Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị… khi bám cơ sở hoạt động bí mật ở làng Mai Xá Chánh, đã ở hầm bí mật của nhà bà Dùng trong một thời gian dài. Bà bị giặc bắt, tra tấn nhiều lần chết đi sống lại nhưng cương quyết không khai. Bà là một phụ nữ xứng đáng với bảy chữ vàng “Gan Mai Xá như đá Hảo Sơn”.
* Gia đình ông từ Triệc (Trương Hữu Triệc)
Là gia đình nghèo, hiền lành, đóng góp tích cực trong những năm chống Pháp và chống Mỹ. Liệt sĩ Trương Hữu Trọng là con trai ông, từng làm xã đội trưởng xã Gio Hà, gan dạ, thông minh, lập nhiều chiến công trong cuộc chống Mỹ cứu nước. Bà Trương Thị Bốn, con gái ông là một trong 7 cô gái làng Mai có nhiều chiến tích trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, bà là một Huyện ủy viên hoạt động bí mật.

* Gia đình ông xạ Khảm (Trương Văn Khảm):
Là một nông dân nghèo, có con tham gia kháng chiến, Liệt sĩ Trương Văn Thiên là con ông, một thanh niên có chí, học giỏi, sớm giác ngộ Cách mạng, tham gia đội tuyên truyền của thôn, của xã. sau làm Văn phòng Uỷ ban kháng chiến xã Linh Hưng. Làm việc tích cực, có tinh thần trách nhiệm cao, ông bị giặc Pháp bắn chết trong một cuộc vây ráp ở nơi đang làm việc.
* Gia đình ông Trương Khắc Thiên:
Con là Trương Khắc Hưng, tham gia đội thiếu niên của làng, tình báo, rải truyền đơn trong kháng chiến chống Pháp. Chiến đấu gan dạ, nắm được tình hình hoạt động của giặc, ông được cử làm Xã đội phó sau làm xã đội trưởng xã Linh Quang. Khi thì đội tự vệ phục kích tại Mai Xá, khi  lên hoạt động ở thôn Vinh Quang Thượng và Hạ, khi băng qua Đôộng Hao Hao về Lâm Xuân Đông và Tây, trung đội tự vệ xã đánh địch nhiều trận, như trận gài mìn ở bến đò Kênh, trận phục kích giặc ở Quai Mọ. Đội du kích còn phối hợp với các đơn vị chủ lực vây đồn Mai Xá, phục kích địch ở cánh đồng Kênh…Trong các trận đánh trên, ông Hưng cùng xã đội trưởng vạch kế hoạch tác chiến hoặc cùng tham gia chiến đấu với đội tự vệ xã. Ông luồn lách khắp các thôn xóm của xã Linh Quang để vận động bà con tham gia chiến đấu, bảo đảm hậu cần, lo cứu thương cho đội du kích, cho bộ đội địa phương, lo bảo vệ Đảng uỷ, Uỷ ban kháng chiến xã…
Năm 1952 chuyển sang trung đoàn 18 rồi được biệt phái sang Lào công tác.
* Gia đình ông Hoàng Văn Kính (ở xóm Đồng)
Là nông dân nghèo, có sức khỏe tốt, ông là một cán bộ hoạt động bí mật tích cực thời chống Pháp. Đội tự vệ xã thường đóng trong nhà ông, bốn bề tre mọc che kín như những bức tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, con đầu Trần Văn Cẩn năm 1970 làm bí thư Đảng ủy xã Gio Hà. Con thứ hai là Hoàng Thí trung tá huyện, đội trưởng huyện  Gio Linh. Con thứ ba Hoàng Văn Thời tham gia du kích, hoạt động bí mật. Hòa bình lập lại được bầu làm bí thư Đảng ủy xã  Gio Hà.
* Gia đình ông Lê Lự
Nhà ông một mình ở giữa cánh đồng làng, thường gọi là xóm Đồng. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, ông cũng hoạt động tích cực. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông đào hầm bí mật nuôi cán bộ, bộ đội. Con trai ông là Lê Kế là một trong những thanh niên của làng tham gia Vệ quốc đoàn sớm nhất, đóng quân nhiều nơi, tham gia nhiều trận đánh. Hoà bình lập lại ông Kế làm Trưởng ban tổ chức, Phó Viện trưởng Viện Công cụ Trung ương.
* Gia đình ông Trương Khắc Tràng:
Là gia đình nghèo, các con tham gia cách mạng sớm: Ông Trương Khắc Minh bộ đội trung đoàn 95, đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu ác liệt với quân thù năm 1953 khi tham gia chiến dịch Hà Nam Ninh, là liệt sỹ. Ông Trương Khắc Bốn, đi bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông Trương Khắc Lân, được công nhận là liệt sĩ năm 1966 tại quê hương.

* Gia đình ông Trương Hữu Diệm:
Gia đình là cơ sở Cách mạng. Con trai ông là Trương Hữu Quyền được bầu làm ủy viên thường vụ Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Gio Mai, là vị Chủ tịch trẻ, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, có nhiều uy tín.
* Gia đình ông Trương Hữu Kỳ
Gia đình vào loại trung nông, con cái đông. Ông tuy bệnh tật nhưng giáo dục con cái cẩn thận.
Con trai Trương Hữu Chướng nhà bình thường, con cái cháu chắt đều chăm làm, chăm học, nhiều người tốt nghiệp đại học.
Con thứ hai là Trương Hữu Ngọc (Nghịch) là cán bộ tiền khởi nghĩa, có ba con trai. Con cả là cán bộ của Quân đội nhân dân. Con thứ hai là Trương Hữu Đức tập kết ra Bắc, tốt nghiệp Đại học Kinh tế, đựơc cử đi B, vào hoạt động ở vùng Quảng Trị nhiều năm. Tuy gian khổ, nhưng luôn luôn trung thành với Cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau năm 1975, ông nhận nhiều công tác quan trọng, như: Phó Giám đốc Sở Tài chính, Giám đốc Công ty Bảo hiểm tỉnh Quảng Trị. Trước khi về hưu, ông được tặng Huân chương Lao động hạng Ba. Con thứ ba là Trương Hữu Chút, làm Hiệu trưởng nhiều năm. Con cái ông Chút đều thành đạt.
Con thứ ba  của ông Kỳ là Trương Hữu Dũng (Dõng) đi bộ đội rất sớm. Là cán bộ chỉ huy vào sinh ra tử ở mặt trận Điện Biên Phủ, sau đi B vào chiến trường Tây Ninh hàng chục năm. Ông là một sĩ quan có năng lực, trung thành với Cách mạng. Năm 1975, về tiếp quản Sài Gòn, làm Chính ủy Quân y Viện 74. Khi về hưu, được phong quân hàm thượng tá quân đội.
* Gia đình ông Thủ Mày (Trương Hữu Hoạch)
Là một gia đình trung nông.
Con đầu là Trương Hữu Diệp (năm nay trên 80 tuổi), các con ông được học hành tử tế.
Con thứ hai là Trương Hữu Dinh (Dược), tham gia Cách mạng sớm.
Con thứ ba là Trương Hữu Mãng. Vào Vệ quốc đoàn sớm, khi xuất ngũ làm Giám đốc một Công ty ở thành phố Hồ Chí Minh.
Con thứ tư là Trương Hữu Bôn, tốt nghiệp  đại học, Giám đốc công ty Dược ở Vĩnh Linh.
* Gia đình ông thầy Tuần:
Gia đình chuyên làm thầy cúng. Thầy Cảnh, con ông cũng là thầy cúng. Khi  làng có lễ, hội, việc cúng giỗ đều mời ông. Con cháu ông có người học rất giỏi, như Trương Hữu Vĩ, đỗ đại học với điểm rất cao, và là một sinh viên xuất sắc.
* Gia đình bà mẹ anh hùng Trần Thị Sửa:
Bà có 3 người con là liệt sĩ: Anh Trương Quang Khun năm 1947 chủ nhiệm Việt Minh xã Linh Hưng. Anh Trương Quang Phẩm (Xiêm con) du kích. Anh Trương Quang Phỉ chính trị viên phó đại đội năm 1948 được Hội đồng nhân dân xã Linh Hưng bầu làm chủ tịch xã. Các cháu nội của bà đều thành đạt:
Anh Trương Quang Vinh làm giám đốc Đài Truyền hình Quảng Ninh.
Anh Trương Quang Thanh dạy cấp 3 thành phố Đông Hà.
Anh Trương  Quang Tùng có công sưu tầm tài liệu về lịch sử và các bài báo viết về làng. Nhờ tích cực làm ruộng và nuôi tôm đủ tiền cho con học đại học, các con của anh Tùng đều thành đạt.
* Gia đình ông Cửu Hường
Kinh tế thời xưa khá, con cái tham gia Cách mạng sớm:
Con trai đầu là Trương Quang Hường, sau năm 1945 tham gia Cách mạng. Năm 1949, được kết nạp Đảng, tốt nghiệp Đại học Tài chính. Năm 1976, là Phó giám đốc, Bí thư Đảng Công ty Cung ứng vật tư. Có bốn con đều tốt nghiệp Đại học, thành đạt.
Con thứ hai là Trương Quang Giáo. Những năm 1954 – 1956, hoạt động bí mật, đến năm 1966 bị giặc bắt đi tù. Là người hiểu biết rộng và có uy tín với dân làng, ông có năm người con, đều thành đạt. Con trai đầu là Trương  Quang Viên, tốt nghiệp Đại học sư phạm, làm Hiệu trưởng lâu năm trường THCS, tám cháu nội, ngoại ông Giáo đều tốt nghiệp Đại học…
* Gia đình ông Tạ Hịm
Con cháu tham gia công tác cách mạng sớm. Con ông là liệt sĩ Tạ Diệm, đă từng làm thư ký UBKC xã Linh Quang thời chống Pháp. Con ông Diệm là Tạ Duật được ra Bắc học tập. Sau khi du học Liên Xô. (cũ) về nước, vào ngành công an rồi công tác tại Sở Công an Đà Nẵng. Trước khi về hưu, là Thượng tá công an. Cháu ông là Tạ Quả, một doanh nhân thành đạt, xây khách sạn to nhất nhì ở thị xã Đông Hà, nhận thi công nhiều công trình ở khắp miền Trung.
* Gia đình ông Lê Chiểu:
Là gia đình nông dân nghèo, luôn luôn trung thành với Cách mạng. Sau hoà bình, có một thời gian ông làm Trưởng làng. Con ông là  Lê Hiển được ra Bắc, học ngành sư phạm xong đi dạy, rồi làm Hiệu trưởng. Về hưu ông về làng, tích cực tham gia việc làng,  việc họ.
* Gia đình ông Cửu Kiếm (Trương Khắc Kiếm)
Ông có hai con trai đều trở thành cán bộ cách mạng. Ông Nguyễn làm cán bộ xã, và liệt sĩ Nguyên, vào bộ đội đánh giặc gan dạ, đã hy sinh trong một trận đánh quân Pháp.
* Gia đình ông Bát Mễ (Trương Khắc Mễ)
Ông là bát phẩm văn giai, được cử làm thừa phái ở các huyện trong tỉnh và các tỉnh khác. Cách mạng tháng 8 thành công, ông tham gia công tác chính quyền Cách mạng. Hai con gái ông tham gia công tác phụ nữ. Hai con trai là Trương Khắc Tập, Trương Khắc Rê đều là cán bộ nhà nước.
* Gia đình ông Nhàn (Trương Hữu Nhàn)
Trước và sau Cách mạng đều làm thầy cúng. Ông có con tham gia tự vệ, bị hy sinh ở Đường 9, được công nhận là liệt sĩ. Gia đình tuy nghèo nhưng góp nhiều công trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
*  Gia đình bà Phương
ở xóm trên, có con trai thời Pháp thuộc đi lính Pháp, sau theo Cách mạng. Cháu nội tên là Pháp (Hà Phi) là liệt sĩ, vào Vệ quốc đoàn, chiến đấu gan dạ, hy sinh dũng cảm trong trận giặc Pháp càn chiến khu Cùa, Quảng Trị.
* Gia đình ông Khoá Thẩm (Trương Quang Thẩm)
Con cái tham gia Cách mạng sớm. Con trai là Trương Quang Khôi vào tự vệ đợt đầu của làng. Đội cảm tử của làng gồm có các ông: Lê Đình Khuyến, Lê Phú, Phan Nậy, Trương Quang Khôi, Bùi Văn Sinh đã tham gia chiến đấu với trung đoàn thiện thuật ở đường 9, khi mặt trận đường 9 vỡ.
* Gia đình ông Từ Xin (Bùi Xin):
Là gia đình trung nông tham gia Cách mạng sớm. Con là Bùi Nồng, tốt nghiệp Đại học sư phạm, là giáo viên cấp 3.
* Gia đình ông Khoá Đẳng (Trương Quang Đẳng)
Luôn trung thành với Cách mạng, có con là Trương Quang Cửu tham gia công tác sớm, được ra Bắc học tập thành cử nhân. Con gái Trương Thị Vấn  là một cán bộ phụ nữ tích cực, thời kháng chiến chống Pháp xâm lược.
* Gia đình ông bộ Thạnh (Trương Quang Thạnh)
Thuộc loại gia đình nông dân khá giả của làng, ông được học hành tử tế, làm hương bộ. Bà Trương Quang Thị Láo con gái ông ở nhà làm ruộng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có nhiều công lớn nuôi dấu cán bộ trong nhà ở gần nhà xã trưởng, nhưng bà gan dạ, thương người, không sợ địch bắt bớ. Sĩ quan đặc công Nguyễn Tình thuộc bộ đội đặc công thuỷ thường trú ẩn ở làng. Một buổi sáng đi làm nhiệm vụ về, quần áo còn ướt thì không may bị lính phục kích đuổi gấp. Ông Tình chạy vào nhà bà Láo, nước từ quần áo rơi xuống cả sân và nền nhà. Bà Láo bảo ông leo lên “tra” để trốn, rồi múc nước đổ ra cả nhà lẫn sân. Bà lôi đứa cháu ra đánh mắng về “tội” làm đổ nước ra nhà, ra sân…Khi bọn lính ập tới hỏi bà có thấy Việt cộng chạy qua đây không thì bà thản nhiên trả lời rằng “Có nhưng họ đã chạy ra phía đằng sau rồi!”. Bọn lính vào nhà lùng sục và nhìn lên “tra” hỏi: “Có phải nó trốn ở trên ấy không?” thì bà Láo nói: “Không, nếu các ông không tin thì leo lên “tra” xem!”. Bọn lính không trèo lên, chúng chỉ bắn mấy phát súng lên “tra” rồi rút lui. ông Tình được một phen hú vía, nếu bà Láo không khéo lừa giặc thì chắc ông không còn...  Sau ngày giải phóng miền Nam, ông Tình được phong hàm đại tá tham mưu Trưởng binh chủng Hải quân, nay là Phó đô đốc, Phó tư lệnh (Trung tướng) Hải quân, ủy viên Trung ương Đảng), thỉnh thoảng có trở về thăm làng Mai và thăm bà Láo.
* Gia đình ông Trương Văn Sút:
Sống bằng nghề làm ruộng là chính, ông có em là Trương Thị Xuyên, một người con gái hiền từ, nết na, có tài ca hát:  hò mái nhì rất hay, đối đáp rất thông minh. Những đêm trăng sáng, trời mát mẻ, dân làng thường tập trung ngồi  ở gò làng để nghe bà Xuyên và những ca sĩ nghiệp dư đi thuyền qua sông cùng hát đối đáp với nhau.
* Gia đình ông Kề (Trương Quang Kề):
Là một gia đình nông dân bình thường, nhưng có sáng kiến chống Mỹ rất khéo léo. Bè lũ Mỹ - ngụy thường vây lùng, khủng bố, rình bắt cán bộ, du kích, nhưng xóm Soi luôn tin tưởng bộ đội cụ Hồ, tin vào đường lối chiến tranh của Đảng. Để che dấu cán bộ, du kích, bộ đội thường về xóm Soi hoạt động, ông Kề đào hầm bí mật kiên cố, nguỵ trang công phu, nên đã nuôi dấu cán bộ được một thời gian dài. Một hôm, bọn giặc phục kích bắn chết một cán bộ của ta, chúng phát hiện được hầm bí mật ở nhà ông, bọn giặc tra tấn nhưng ông đã không khai báo gì cả. Rút cục, bọn giặc phải thả ông về. Ông có bốn người con đều tham gia hoạt độngCách mạng.
* Nhà ông Bùi Thản (Thông Thản)
Gia đình khá giả, làm ăn tốt, ông sớm tham gia công tác cách mạng. Đầu năm 1947, được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, sau lên công tác ở tỉnh Quảng Trị. Con cháu ông đều thành đạt: Con trai đầu Bùi Viên là Thượng tá công an, Hội viên Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh. Con ông Viên là Bùi Tâm đạt học vị tiến sỹ. Con thứ hai của ông Thản là Bùi Điền đỗ cử nhân. Người con thứ ba là Bùi Thiết cũng đỗ cử nhân, làm giám đốc công ty ở thành phố Hồ Chí Minh, người con thứ tư, thứ năm là  Bùi Thành, Bùi Thạnh cũng thành đạt.
* Gia đình ông Bùi Kèo:
Gia đình trung nông, kinh tế bình thường. Con ông là Bùi Cúc, tham gia cách mạng sớm. Trong kháng chiến chống Pháp, làm Bí thư chi bộ xã, sau lên tỉnh công tác. Ông Bùi Dũng con ông Bùi Cúc là một quân nhân được phong hàm đại tá, Tham mưu trưởng tỉnh đội Quảng Trị. Kỹ sư Bùi Bang, em ông Bùi Cúc là một cán bộ cốt cán.
* Gia đình ông Lê Quày:
Gia đình bần nông này nhiều con trai, nhiều người đi bộ đội. Các con trai là:
- Lê Phú, tham gia đội cảm tử đánh Pháp ở đường số 9, đã anh dũng hy sinh.
- Lê Sàng vào Vệ quốc đoàn, sau tập kết công tác ở miền Bắc.
- Lê Hậu, có con gái là Lê Thị  Dung, sau xây dựng gia đình với ông Bùi Luyện. Ngoài làm ruộng, ông Luyện còn đi làm thợ mộc, vợ lo buôn bán nhỏ. Hai vợ chồng tích cực làm ăn, nên kinh tế gia đình vào loại tương đối, nuôi 9 người con ăn học. Nhiều người đỗ đại học, 9 người con đều có công ăn việc làm ổn định.
* Gia đình ông Trương Hữu Toại
Là nông dân thuần tuý, ông có tài làm vè và kể chuyện bằng vè rất hấp dẫn. Đêm ngồi nấu bánh chưng Tết mà được nghe ông kể vè thì không bao giờ chán, thức suốt đêm cũng được. Con ông là Trương Hữu Tuyển, tốt nghiệp Đại học, trở thành cán bộ giảng dạy trường Đại học Nông nghiệp, các con cháu ông đều trưởng thành cả.
* Gia đình ông Binh Phó :
Gia đình nông dân, con cháu đều tham gia cách mạng. Con trai ông là Trần Lung, cán bộ được tập  kết ra Bắc. Cháu nội là Trần Thành huế, được ra Bắc học trường miền Nam, sau du học ở Liên Xô (cũ), tốt nghiệp đại học, về giảng dạy rồi làm Chủ nhiệm Khoa Hoá, Đại học Sư phạm Hà Nội. Phó giáo sư, tiến sỹ Trần Thành huế thường dẫn đoàn học sinh đi thi hóa Quốc tế.  
* Gia đình ông Lê Đông Tương
Ông đi bộ đội tình nguyện chiến đấu ở Lào, sau sang  Thái Lan hoạt động. Năm 1955 về nước làm ở Ty Tài chính tỉnh Hà Tây. Con ông là ông Lê Hạnh nay là Phó giám đốc Công ty TNHH một thành viên về phát triển nhà Hà Nội. Ba cháu con ông Hạnh đều tốt nghiệp Đại học, có công việc làm tốt.


[1] Ông Trương Khắc Kỷ cung cấp
[2] Theo các ông Lê Kế và Trương Văn Tri kể
[3] Ông Trương Khắc Hưng kể lại
[4] Gồm thôn Vĩnh Quang Thượng - Hạ, Làm Xuân Đông Tây, Mai Xá Chánh, Mai Xá Thị, Hoàng Hà, chợ Hôm, Bác Vọng.
[5] Các đồng chí Lê Bình Quế và Nguyễn Đức Dũng là Bí thư và phó Bí thư huyện ủy Gio Linh bám trụ ở làng Mai Xá.

Chương 5


®êi sèng v¨n häc nghÖ thuËt

1. 99 Cồn
Cánh đồng Côi, đồng Sau, đồng Kênh của làng Mai rất rộng có nhiều cồn. Truyện dân gian xưa kể rằng ba cánh đồng làng nằm sát sông Thạch Hãn và sông Hiếu về phía bắc, vùng này lau sậy nhiều, đường đi lại hiểm trở và là tiền đồn của quân ta chiếm giữ bờ bắc không cho quân Chăm tràn qua. Vì đất bùn lầy, nước ngập nên quân lính phải lấy đất đắp nhiều cồn để có nơi canh gác, luyện tập.
Nhưng có người nói rằng những cái cồn này đã có từ xưa. Có 99 cái cồn tất cả, bầy hạc bay qua có 100 con, sà xuống các cồn để đậu nhưng chỉ có 99 cồn, con vạc thứ một trăm không có chỗ đậu, nó bay đi nên cả bầy hạc bay theo. Nếu có đủ 100 cái cồn, thì bầy hạc sẽ đậu lại, đưa vinh hoa phú quý về cho làng, nhưng bầy hạc không đậu nên làng Mai không trở thành kinh đô, thành phố.
Hiện nay trên bốn cánh đồng, số cồn vẫn tồn tại, là nơi mà dân làng xây lăng tẩm, hoặc là các cồn cỏ xanh tươi để thả trâu bò.
2. Chuyện Quả bầu
Các cụ kể rằng ngày xưa giữa Mai Xá với Lâm Xuân và các làng khác chưa có cột mốc phân chia ranh giới. Sau nhờ có vụ kiện giữa hai làng Mai Xá và Lâm Xuân, quan trên xử kiện và xác định ranh giới giữa các làng. Chuyện rằng ở Mai Xá có một người lấy chồng ở làng Lâm Xuân. Chồng làm hương bộ giữ sổ sách điền thổ của làng, người vợ đã lấy mấy tờ trong địa bạ của làng Lâm Xuân đưa về cho làng Mai Xá. Vì thế hai làng đã kiện nhau về ruộng đất. Nhân một năm có trận đại hồng thuỷ, nước ngập tất cả các cánh đồng, quan trên xử như sau: Dân làng dùng quả bầu khô thả từ đầu nguồn nước ở Đôộng Hao Hao, đường đi của quả bầu sẽ là ranh giới giữa các làng. Khi bắt đầu thả quả bầu thì có gió tây, trôi một đoạn thì có gió nam nên quả bầu đổi hướng. Sau một thời gian bầu trôi, gió lại đổi hướng Đông, rồi quả bầu lại đổi hướng... Cụ thể như ranh giới làng Lâm Xuân với Làng Mai là từ động Hao Hao về đến Lò Rèn rồi đi vòng ra Lâm Xuân Tây, Lâm Xuân Đông, đến Hoàng Hà qua Hà Hõm thuộc xã Duy Phiên, Duy Phiên lúc bấy giờ thuộc huyện Minh Linh, cùng huyện với làng Mai Xá. Từ đó đến bây giờ ranh giới giữa các làng vẫn không thay đổi.
Chuyện dân gian về quả bầu không biết có thật hay không, song đất của làng Mai nay còn nguyên vẹn như xưa, tuy các cột mốc lâu ngày bị hư hỏng nhưng ranh giới của các làng vẫn không thay đổi, dân làng nào vẫn canh tác trên phần đất của làng mình, không tranh chấp, không kiện tụng vì vẫn còn giữ được địa bạ của các làng từ năm 1827 thời Minh Mạng năm thứ 8 đã phân giới, có cột mốc rõ ràng.
3. Thần Cẩu.
Ngày xưa đất làng Mai Xá liền một dải từ Cồn Tiên đến cửa Việt Yên. Dân Mai Thị chuyên sống trên sông buôn bán, đánh bắt cá ven sông của làng Mai Xá. Sau có một quan lớn ở triều đình Nguyễn tên là Trần Đình Túc (Trần Đình Ân), người ở làng Hà Trung bàn với làng Mai Xá cắt đất cho dân Mai Thị thành lập làng. Dân làng Mai Xá đồng ý, nhưng con đường liên thôn dọc bờ sông Hiếu, con đường Bạn từ bến đò Kênh lên xóm sau của làng Mai là thuộc về đất làng Mai Xá Chánh. Sau khi được thành lập, làng Mai Xá Thị tổ chức xây đình (khoảng năm 1925). Đòn đông của đình làng Mai Thị đâm vào vùng dân cư đông đúc của làng Mai Xá Chánh. Thầy địa lý xem xét và nói rằng: Nếu đình này làm xong, ba tháng sau ở làng Mai Xá Chánh gà sẽ không gáy, chó không sủa, nhà cửa bị thần Hoả thiêu trụi, dân làng sẽ bị bệnh dịch...Làng Mai Xá Chánh nghe thế liền đâm đơn lên huyện, tỉnh để kiện. Vụ kiện kéo dài gần 10 năm, ban ngày dân Mai Thị xây, ban đêm dân Mai Xá Chánh sang đập phá. Huyện cho lính lệ về bảo vệ đình làng Mai Xá Thị, dân Mai Xá Chánh tìm cách ngăn lính lệ từ xa, không cho lính lệ về làng
Sau nhiều năm, trên huyện, tỉnh cho lính khố đỏ về can thiệp, thực hiện giới nghiêm dân làmg Mai Xá Chánh, cứ 3 nhà thì có một lính theo dõi, không cho dân ra khỏi nhà, không cho dân liên lạc với nhau vì thế dân làng Mai Xá Chánh  không phá được đình. Tháng 7/1935, Đình Mai Thị làm xong. Dân Mai Xá Chánh tức lắm bàn nhau nhờ một pháp sư dựng “thần Cẩu” há miệng đớp ngôi đình và truyền bùa phép vào thần Cẩu để bảo vệ nhà cửa, hoa mầu dân làng
Ngài thần Cẩu được dựng trên mô đất cao ráo, thoáng đãng. Về sau dân hai làng sinh sống bình thường không xảy ra chuyện gì nữa. Sau khi thống nhất nước nhà, làng Mai Xá Chánh nhường thêm cho làng Mai Xá Thị một số đất canh tác ở phía bắc đường Bạn. Làng Mai Xá Chánh, Mai Xá Thị, Lâm  Xuân thuộc xã Gio Mai...
4. Bài hát “ Bà mẹ Gio Linh”
Cuối năm 1948, bài hát “ Bà mẹ Gio Linh” đã in sâu vào lòng người dân làng Mai Xá Chánh, Mai Xá Thị xã Gio Quang, huyện Gio Linh. Mọi người lính quân khu Bình Trị Thiên đều thuộc bài hát đó. Trước khi ra trận hoặc sau trận đánh trở về, mọi người lính đều hát. Bài hát không những để lại trong lòng dân một nỗi đau thương của hai bà mẹ già, của hai gia đình, của dân hai làng Mai mà còn gây nên lòng căm hờn, uất hận đối với kẻ thù độc ác, man rợ của nhân dân cả nước. Đây là một trong những bài hát yêu nước có tác dụng lớn, nó động viên nhân dân, bộ đội “nhằm thẳng quân thù mà bắn”, trong những ngày đầu chống thực dân Pháp ở vùng Bình Trị Thiên.
Cùng với cả huyện Gio Linh, người dân làng Mai đã góp phần tạo dựng nên “Huyện kháng chiến kiểu mẫu” năm 1949 của huyện Gio Linh.
Ngày 16-8-1948 dân làng Mai không bao giờ quên đó là ngày mà bọn giặc Pháp cắt đầu ông Kỳ và ông Phi đem cắm ở mép sông, gần chợ trước cổng Đình làng Mai. Trong đợt càn quét quy mô của giặc Pháp, cả dân làng và tự vệ của làng phải tìm cách trốn thoát, nhưng giặc Pháp vây chặt, một số nhân dân bị bắt, ông Nguyễn Đức Kỳ, chính trị viên xã đội và ông Nguyễn Phi cán bộ bình dân học vụ cũng bị chúng bắt được đem về giam ở đồn Nhỉ Hà. Chúng tra tấn hai ông suốt ngày đêm nhưng hai ông cương quyết không khai báo một lời nào, chúng hành quyết rồi cắt đầu hai ông đem cắm ở chợ làng Mai. Vì làng Mai là một làng đồng thuận đoàn kết, con em làng Mai đa số đi bộ đội, dân làng Mai ai ai cũng có tinh thần chống Pháp, chúng muốn nhân cơ hội này để uy hiếp tinh thần chiến đấu của dân, quân làng Mai, của nhân dân huyện Gio Linh nhưng chúng đã nhầm to, mối thù nhà, nợ nước này không bao giờ quên được, nó càng thổi lên ngọn lửa căm hờn của toàn dân, nó càng tăng thêm sức chiến đấu của dân làng Mai, của nhân dân, của tự vệ, của bộ đội huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Khi cắm đầu của hai ông xong, lính Pháp canh gác nghiêm ngặt, chúng tuyên bố rằng ai lấy đầu hai ông về chúng sẽ bắn chết và bắt cả gia đình tra tấn. Nhờ có sự theo dõi, tình báo của đội tự vệ, đã tìm được chỗ sơ hở của bọn giặc, hai gia đình đã mang đầu của hai ông về chôn cất an toàn.
Buổi chiều, mặt trời sắp tắt, bọn lính kéo vào đồn để ăn cơm. Nhân thời cơ đó Bà Lê Thị Cháu mẹ của ông Kỳ và bà Khương Thị Mén thím của ông Kỳ, bà Hoàng Thị Sáng mẹ của ông Phi, bà Bùi Thị Con thím của ông Phi cắp thúng mủng giả dạng đi chợ đã mang đầu của hai ông về và cất dấu kỹ, vài hôm sau mới đóng hòm đem chôn. Mãi đến năm 1953, hai gia đình đã ra đồn Nhỉ Hạ lấy thân xác hai ông về. Thi hài hai ông được gắn kết trọn vẹn. Mộ của ông Kỳ được đặt trong khu lăng mộ phái Nguyễn Đức tại Cồn Go. Mộ ông Phi đặt trong khu lăng mộ gia đình tại Cồn Dài – cánh đồng Kênh, làng Mai Xá.
Năm 1948, trong chuyến đi công tác vào chiến trường Bình Trị Thiên, nhạc sĩ Phạm Duy đã đến chiến khu huyện Gio Linh, ông nghe kể lại chuyện bà mẹ làng Mai lấy thúng đi mang đầu con về… Một đất nước có một nhân vật như bà mẹ Gio Linh đáng quý lắm. Vì vậy nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác bài hát ”Bà mẹ Gio Linh”. Ông cho biết ông sáng tác “Bà mẹ Gio Linh” trong một đêm, lúc nằm trên giường tre ở chiến khu.
Bài hát có 3 đoạn: Tôi xin chép lại một đoạn.
“Mẹ già cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày cho dù áo rách sờn vai, cơm ăn bát vơi bát đầy, hò ơi ơi ới hò…
Mẹ già tưới nước trồng rau, nghe tin xóm làng kêu gào, quân thù đã bắt được con, mang ra giữa chợ cắt đầu, hò ơi ơi ới hò nghẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu”...
Trong một đêm nhạc sĩ đã sáng tác được một bài hát vô giá. Đài phát thanh Pháp bình luận, có đoạn “Những giây phút sáng tạo như thế không đến nhiều lần trong đời nghệ sĩ… Từ niềm đau cá nhân của một người mẹ đã thăng hoa thành niềm đau chung của một dân tộc và của loài người”.
5. Ngã ba Gia Độ
Con sông Thạch Hãn là sông lớn nhất của tỉnh Quảng Trị, chảy từ nguồn về qua thị xã Quảng Trị, khi đến làng Gia Độ gặp con sông Hiếu chảy từ Cam Lộ về tạo thành ngã ba sông, được gọi là ngã ba Gia Độ. Dòng nước của hai con sông tiếp tục chảy về cửa Việt Yên qua hai con đường bao quanh cánh đồng Soi của làng Mai Xá Chánh, đến Bơi Bơi thì chúng nhập lại chảy ra biển Đông. Ngã ba sông Gia Độ tương đối rộng, phía nam tiếp giáp với huyện Triệu Phong, phía Bắc tiếp giáp với huyện Cam Lộ, phía Tây tiếp giáp với thị xã Đông Hà, phía Đông tiếp giáp với làng Mai Xá Chánh, huyện Gio Linh.
Tàu, thuyền qua lại ngã ba tấp nập, ngày xưa đường bộ đi lại khó khăn, thường người ta đi bằng đường thuỷ để buôn bán. Thời Lý, Trần, Nguyễn muốn chuyển quân vào Nam cũng đi qua đường thuỷ, thuyền chiến chở quân vào cửa Việt Yên rồi theo sông Thạch Hãn lên ngã ba Gia Độ rồi vào ái Tử, hoặc lên Đông Hà….
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bọn giặc đã dùng tàu chiến chở lính, súng đạn, dùng tàu hàng để chở lương thực, thuốc men từ tàu lớn ở ngoài khơi cửa Việt tiếp tế cho thị xã Quảng Trị, Đường 9, Khe Sanh , Nam Lào…, các tàu đều đi qua ngã ba Gia Độ. Du kích, tự vệ của làng Mai Xá Chánh đã phối hợp với du kích xã, bộ đội đặc công nước, quân địa phương, quân chủ lực đánh tàu thuyền địch trên sông Thạch Hãn, ở ngã ba Gia Độ. Có một trận đánh trên ngã ba sông, đã để lại dấu ấn không người nào ở Quảng Trị quên được. Theo lệnh của chỉ huy chiến dịch, cần phải tiêu diệt tàu địch ở ngã ba sông Gia Độ. Dân làng ở ven sông Hiếu gần ngã ba phải chuẩn bị nhiều cọc tre tươi để đóng cọc ngăn sông.
Tối 6/2/1968, đồng chí Nguyên Sanh  cán bộ của huyện Gio Cam đã triệu tập một hội nghị quan trọng để vạch kế hoạch đánh tàu chiến của giặc trên sông Hiếu bằng cách đóng cọc ngăn sông. Hàng cọc ngầm dài 500m, rộng hơn 200m từ ngã sông Gia Đô đến Hói Sòng Đại Độ, kết hợp với việc rải mìn, thuỷ lôi. Hơn 1.000 cọc tre, gỗ đã cắm xong trước khi trời sáng.
Sáng ngày 8/2, tàu tuần tiễu từ Đông Hà chạy xuống vấp thuỷ lôi nổ, một số bị hỏng, số còn lại chạy về Đông Hà; 12 giờ ngày 8/2 hai tàu tuần tiễu từ cửa Việt chạy lên bắn vào trận địa. Bị đại đội DKZ bắn cháy một chiếc, chiếc còn lại tháo chạy. Trưa ngày 9/2/68, địch cho một đoàn tàu chiến có pháo lớn hỗ trợ và tàu “há mồm” chở 5 xe bọc thép và bộ binh Mỹ bắn xối xả vào các làng ven sông Thạch Hẵn và sông Hiếu. Tàu lên đến ngã ba Gia Độ thì vấp phải cọc tre không chạy được. Trong lúc bọn địch đang hoang mang thì bị hoả lực của ta bắn dữ dội: 3 xe bọc thép bị cháy, ba tàu bị chìm và hàng chục lính Mỹ bị chết. Đến chiều, chúng huy động sáu lượt máy bay AD6 ném bom xuống trận địa và các làng ven sông xã Gio Hà và xã Cam Giang.
Chiến thắng này dân Quảng Trị ví như chiến thắng sông Bạch Đằng năm xưa. Chiến thắng ở ngã ba Gia Độ đã làm cho bọn giặc kinh hồn, quân lính mất tinh thần. Tuyến giao thông cửa Việt Đông Hà tê liệt hơn 4 ngày liền. Mặt trận B5 đã biểu dương dân và quân huyện Gio Cam.
6. “Ngài Rùa” làng Mai
Năm 1892, làng Mai đã trùng tu lại đình, xây ngôi đình mới khang trang, theo kiểu đình của xứ Huế. Ngôi đình xây trên một vùng đất cao, phong thuỷ hữu tình. Nội thất trong đình đầy đủ, trang nghiêm.... trước bàn thờ các vị khai khẩn có đôi hạc đứng trên lưng hai con rùa. Rùa và hạc biểu trưng cho sự trường tồn, lâu đời của thiên nhiên. Hai con hạc và hai con rùa đều làm bằng gỗ mít, chạm trổ rất công phu, sơn son thiếp vàng óng ánh.
Mùa hè năm 1967, Mỹ nguỵ lập một cầu vận tải từ biển theo sông Thạch Hãn và sông Hiếu lên sân bay ái tử và cảng Đông Hà để “tăng bo” hàng chiến lược lên đường 9 – Khe Sanh. Chủ trương của giặc là phát quang hai bên bờ sông Hiếu, sông Thạch Hãn, để đẩy quân giải phóng ra xa tuyến hành lang này. Trong kế hoạch đó, đơn vị thuỷ lục quân của viên đại uý Uy – li – am nhận nhiệm vụ san phẳng làng Mai. Sau khi làng bị san phẳng, Uy – li – am đến nền đình đổ nát, thấy một con rùa bằng gỗ, sơn son thiếp vàng lạ mắt, bèn nhặt lên và giữ bên mình như một chiến lợi phẩm.
Chiến tranh đưa Uy – li- am đến nhiều vùng đất, nhiều châu lục trở thành trung tướng chỉ huy trong lực lượng thuỷ quân lục chiến của Mỹ. Suốt gần 40 năm – từ năm 1967 đến năm 2002, nỗi ám ảnh về những trận chiến trên vùng đất Quảng Trị luôn luôn dằn vặt ông, như một vết thương tâm hồn không thể nào lành. Ông Uy – ly – am quyết định sang thăm Việt Nam theo đoàn cựu chiến binh Mỹ và mang theo con rùa để trả lại cho đình Làng Mai. Viên tướng về hưu Uy – li – am run run mở bọc vải, đặt lên bàn thờ con rùa bằng gỗ đã tróc gần hết sơn son, thiếp vàng. Đoạn chấp tay cúi đầu: “Xin hãy tha thứ cho những lỗi lầm của tôi, cũng như sự chậm trễ này”.

Các chức sắc, các bô lão của làng Mai ngỡ ngàng. Đó là con rùa của đình đã mất từ năm 1967. Con rùa làm năm 1892 đến nay là 117 năm (năm 2002) đã đi một nửa vòng trái đất, từ Việt Nam đến Mỹ và ngược lại. Đúng là “Ngài Rùa” lịch sử của làng Mai Xá Chánh.
7.  Cố Tổng Miên
  Chuyện được ông Chậu kể, tôi ghi lại ở đây. Rất tiếc là lúc nhỏ, chỉ nghe sự việc, chứ đâu tò mò hỏi rõ nhà ở, thời điểm nào sinh cố Miên
  Bố tôi kể: Năm Triều đình mở kỳ thi võ, cố tổng Miên đi thi, các môn côn, kiếm, giáo, quyền, cố đều hạng ưu. Đến môn thi bắn cung, cố đau mắt bắn không trúng hồng tâm, nên bị loại, mất bằng cử võ.
   Bố kể tiếp: Có những chiều Cố cầm côn dài ra đứng ở ngã ba đường Quai Mọ, chờ lũ trẻ chăn trâu, chăn bò về, thách đánh nhau với cố. Lũ trẻ ném mạnh vào cố nào que, nào gậy, nào đá có sẵn trong tay. Nhưng cái côn dài của cố múa tròn, múa lẹ, hất tung mọi thứ. Bọn trẻ chịu thua. Cố ngừng tay. Cười vui không chút thở dốc nào. Câu chuyện này tôi liên tưởng đến Triệu Tử Long phá Đương Dương trong chuyện Tam Quốc, chắc có thật.
  Ông Chậu kể cho tôi nghe : Hồi ấy ông còn nhỏ tuổi, đi với cố Tổng Miên lên Bát phường ăn giỗ. Có việc gấp phải về Mai Xá ngay trong đêm. Bát phường lúc ấy cây cối rậm rạp và rừng già bao bọc xung quanh. Ban đêm nhà nào cũng đặt những ống tre lồ ô to từ trong nhà xuyên ra hè để tiểu tiện, khỏi phải mở cửa ra ngoài, tránh rủi ro, gặp hổ rình bắt người, heo, bò, chó. Cố Tổng Miên cầm roi song mây đi trước, ông Chậu sợ dựng đứng tóc gáy, bám lấy lưng quần cố Tổng Miên đi theo sau, giữa đường gặp cọp, hai cục than đỏ ngầu ngầu tiến thẳng tới. Lập tức hai bên quần nhau quyết liệt. Cố Miên cầm dựng đứng cây roi và nói với cọp: “Mi không chịu chạy đi thì tau đành phải phạm tổ vậy”. Thế rồi cố vút thật mạnh đầu roi song, đánh phủ đầu trán cọp. Con cọp hét gầm một tiếng rồi biến mất trong đêm. Gần sáng hai ông con về đến làng, quần áo ông Chậu ướt đầm đìa.
Ông Chậu nói rằng Cố Miên có tài, nhưng không cậy tài, cố biết tuỳ nghi hành xử, đem lợi ích đến cho xóm làng. Sự việc như sau:
ở vùng ta hồi ấy có một tên ăn trộm nổi danh bậc thầy. Đi đêm, hắn thủ  trong người một roi sắt lợi hại. Biết nhà mình bị trộm mà không ai dám đuổi theo, vì sợ tiếng roi sắt vút lên trong không trung, có khi chỉ là có một cơn gió mạnh réo rít, không làm chết ai, nhưng chỉ do quá sợ, mà ngã lăn đùng xuống đất bất tỉnh.
  Đêm ấy, tên trộm bậc thầy mò đến nhà Tổng Miên. Nghe động, cố cầm côn, lách cửa, ra sân. Không biết cố dùng miếng võ bí hiểm gì mà vừa tránh được roi sắt, vừa tước được roi sắt trong tay kẻ trộm. Mất vũ khí, tên trộm bỏ chạy. Cố Miên không đuổi theo, trở vào nhà, đóng cửa, xoa chân ngủ tiếp. Nửa buổi sáng hôm sau, có một người khách, dáng người vạm vỡ, ăn mặc chỉnh tề vào nhà cố Miên. Cố Miên ra sân chào khách, mời khách vào nhà uống nước.
   Dạ thưa bác! Đêm qua tôi đến nhầm nhà bác. Xin bác bỏ lỗi cho và xin bác lại cây roi, nghề làm ăn của tôi đó!
  Cố Miên bình thản mời khách uống nước, rồi nói:
  ừ! Cái nghề làm ăn của chú, chú cứ làm, tôi trả lại cây roi cho chú và chỉ xin chú một điều: Từ nay chú làm ăn ở mô thì tuỳ, nhưng hãy chừa làng tôi, để làng tôi được yên ổn.
Người khách lễ độ vâng vâng, dạ dạ! Và quả thật từ đó về sau, làng ta vắng bóng thằng ăn trộm bậc thầy có một cây roi sắt.
(Ông Trương Công Hốt kể)
8. Ông Xạ Bột
Ông Trương Văn Bột ra đi vào lúc 10h39 phút tối ngày 27 tháng giêng năm 2004 (âm lịch). Các cơ quan tỉnh, huyện, xã, làng và đồng đội,  cùng đông đảo bạn bè, bà con ruột thịt, làng xóm đến viếng và tiễn đưa ông về nơi vĩnh hằng, hưởng thọ 86 tuổi.
Ông sinh ra trong một gia đình trung nông ở làng Mai Xá Chánh, huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị. Cha mất sớm, một mình mẹ già nuôi tám anh chị em lớn khôn. Nhờ mẹ biết cách làm ăn, điều khiển gia đình giỏi nên việc làm ăn của gia đình ngày càng phát đạt và giàu có, có khi giàu nhất, nhì làng Mai. Ông Trương Văn Bột là trụ cột của gia đình về việc sản xuất, cày cấy.
Thủa nhỏ, ông học với thầy giáo Trương Quang Phiên (hiệu là Tiên Việt). Ông trợ Phiên có tư tưởng tiến bộ, bạn với ông giáo Đạm dạy ở Đông Hà. Hai thầy giáo có cảm tình với ông Bột. Năm 1936, ông Bột được hai thầy giáo cho đi dự buổi diễn thuyết về Cách mạng của ông Trần Công Khanh ở trên Đôộng Hao Hao. Ông Bột trở thành người giao liên của thầy giáo Phiên và thầy giáo Đạm.
Khi Nhật vào Đông Dương, làng Mai còn khuyết chức lý trưởng.  Bô lão bảo thủ cử ông Tạ Lạn, Trương Khắc Cần. Trai trẻ cấp tiến do ông Trương Quang Phiên chỉ đạo. Ông Phiên bí mật gọi ông Trương Khắc Tá, Trương Khắc Nghi, Trương Văn Táo, Lê Quế là những người đứng về phe cấp tiến bàn cách đề xuất ông Trương Văn Bột. Ông Trương Văn Bột được chọn làm lý trưởng làng Mai.
Nhật đảo chính Pháp, thành lập bộ máy chính quyền mới. Nhật bắt quan huyện các địa phương ra lệnh cho nông dân phá lúa trồng đay, trong nửa tháng phải làm xong. Ông xạ Bột bàn với các ông xạ Chí ở Lâm Xuân, xạ Luận ở Nhỉ Hạ làm đơn xin quan huyện cho miễn việc trên, quan huyện không đồng ý. Nhưng các ông lặng lẽ không chấp hành .
Trong phong trào chống Nhật ở huyện, ở làng lên cao, ông xạ Bột xung phong vào đội cảm tử, được bầu vào Ban chấp hành thanh niên huyện Gio Linh.
Tháng 2 năm 1945, ông Bột với Nguyễn Đăng Dung thôn Vinh Quang diễn thuyết ở chợ Mai Xá. Tháng 3/1945, ông Bột mặc quần áo lý trưởng lên chợ Nam Đông bảo vệ cho bà Lê Diệu Muội diễn thuyết. Một chiều tháng 5/1945, thanh niên làng Mai đang tập ném đá như ném lựu đạn thật ra sông Hiếu, một chiếc đò có hai người chèo và một bà cầm lái đi qua. Bà lái đò nói: “Đừng ném nữa, nếu ném đúng quan Nhật thì chết”. Đám thanh niên đang hăng say ném bất chấp mọi thứ, có thanh niên tên là Trương Công Tự nói: “Quan quyền gì ta cũng ném”. Ông Tự ném cục đá đúng vào đò, lính Nhật liền đứng dậy bắn súng chỉ thiên và ghé đò vào gò làng. Lúc đó mọi người đều chạy toán loạn. Kẻ chạy về làng, kẻ chạy lên Lòi trốn. Toán lính Nhật đuổi theo, gặp ai cũng đánh và hỏi “Ai ném đá”? Ông Bột cũng có trong đám đông đó, người ta bảo ông chạy đi nhưng ông không chạy, ông nghĩ nếu mình chạy thì yên thân nhưng làng nước sẽ bị chết chóc và thiêu rụi. Ông chạy về nhà mặc quần áo lý trưởng, đeo bài chỉ, đi đến chỗ xảy ra sự việc. Ông đang đi trên con đê dẫn ra bờ sông thì gặp lính Nhật kéo nhau vào làng. Một người Nhật đeo kiếm dài nắm khẩu súng lục trong tay liền hỏi ông Bột: “Có phải lý trưởng không?”. Ông xạ Bột gật đầu, người phiên dịch nói: “Quan nhật hỏi người nào ném đá xuống đò”. Ông trả lời: “Hiện nay chưa biết, nhưng vì đây là địa phận của làng, chắc là người dân trong làng ném”. Người Nhật bảo : “Hẹn sau ba ngày, khi đò đi Đông Hà về phải nộp người ném đá, nếu không người Nhật đốt sạch cả làng, lùa hết cả trâu bò....”. Ông xạ Bột trả lời: “ vâng!”. Dân làng thấy đò Nhật đi rồi lần lượt trở về làng. Dân làng kéo vào nhà ông Xạ Bột càng ngày càng đông, ngồi đến 2 - 3 giờ sáng mà chưa về. Mọi người bàn tán, nêu ý kiến để giải quyết sự việc nhưng đều bế tắc.
Ông Xạ Bột đêm ấy không ngủ được, vắt óc suy nghĩ tìm ra cách giải quyết cho thoả đáng, rồi một ý tưởng nảy ra. Đò Nhật ở cửa Việt lên ta nên về cửa Việt tìm hiểu. Khi về cửa Việt, ông Xạ Bột gặp bà Xuân có cháu là O Bê làm thông ngôn cho Nhật.
Ông Xạ Bột kể sự việc cho bà Xuân và O Bê nghe. Hai người đều quen ông Bột nên họ nhiệt tình giúp đỡ. Họ trình bày với một sĩ quan Nhật và được viên sĩ quan giúp đỡ. Viên sỹ quan này ghi vào tờ giấy bằng tiếng Nhật rồi đưa cho ông Xạ Bột. Ông Bột phấn khởi lên thuyền về nhà. Về đến làng, các nhà chức sắc, nhân dân lại kéo đến bàn việc. Ông Xạ Bột kín đáo không nói gì cả.
Đúng sáng ngày hẹn với sỹ quan Nhật, ông xạ Bột mặc sắc phục lý trưởng, đeo thẻ bài đi ra Đình và gọi hai ông hương mục Lê ích và Trương Khắc Cát ra kê dọn bàn ghế, mở cửa đình, túc trực đón quân Nhật về. Ngày ấy, cả làng Mai đều đi sơ tán khỏi làng. Ông xạ Bột một mình ngồi ở đình chờ đợi giờ nguy hiểm đến với ông. Hơn 10h, đò Nhật đã về bến, một tiểu đội lính kéo nhau vào sân đình. Đến sân đình, viên chỉ huy hô một tiếng, tụi lính chia hai hàng bao quanh ngôi đình. Ông xạ Bột mời chúng vào đình, chúng không vào. Viên sỹ quan mặt đầy sát khí, hất hàm nói: “Thằng ném đá đâu rồi” ? Ông xạ Bột không trả lời, bình tĩnh đưa tay vào túi, rút tờ giấy đưa cho viên sỹ quan.
Viên sỹ quan cầm tờ giấy đọc, sắc mặt biến đổi và hô một tiếng, cả tiểu đội rút súng trở về tư thế bình thường. Viên sỹ quan giơ tay chào ông xạ Bột  rồi rút quân xuống đò.
Thế là dân làng được yên, làng thoát được nguy hiểm. Ai cũng khen ông Xạ Bột mưu trí, dũng cảm, cứu được dân làng.
Ngày hôm sau ông xạ Bột mang triện và thẻ bài lên trả quan huyện
Ngày 10 tháng 2 năm 1946, ông cùng 6 người nữa được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Chi bộ Đảng của Làng Mai được thành lập từ ngày đó. Năm 1947, ông xạ Bột gia nhập Vệ quốc đoàn thuộc trung đoàn 95, ông làm ở bộ phận tham mưu của trung đoàn. Ông phục vụ cho quân đội đến tuổi về hưu
Ông là một trong 5 người thuộc diện “cán bộ tiền khởi nghĩa” của làng Mai.
 Trương Quang Đệ – Trương Hữu Thảo

9. Sưu tầm các bài viết về làng Mai Xá Chánh.
I. Thơ - văn – hò - vè viết về Mai Xá
Các bài thơ:
Nhớ lại
        Bùi Xuân Ban
Nhớ lại ngày xưa, thuở ấu thơ
Biết bao kỷ niệm đến bây giờ
Tình người cao đẹp càng lưu luyến
Nghĩa bạn vui buồn chẳng thờ ơ
“Tiên Việt học đường” lò đào luyện
“Mai đình trụ sở” điểm văn thơ
Cơ đồ đâu phải là chừng ấy
Từ đó toả ra khắp bến bờ

Thơ Xướng: Xuân cảm năm 1944

Đầu năm, mồng một gọi “Mai xưa”
Hỏi chúa Xuân ai đã gặp chưa?
Tiếng pháo kêu vang, trời chuyển động
Bóng nêu cao ngất gió ơ hờ
Phong lưu mượn thú đưa chum rượu
Cảnh vật vui tình khiến vận thơ
Một tuổi, một năm thêm một lớn
Khôn lo bắt chước, dại lo chừa!
Tiên việt dạ nhân
Trương Quang Phiên

Hoạ

Thanh niên thức tỉnh giấc ngày xưa
Tiếng gọi năm châu đã rõ chưa?
Nợ nước hai vai, chung gánh vác
Tình nhà một mối, dám ơ hờ
Hiện nay dân tộc trường tranh đấu
Nhớ trước anh hùng dạ thẩn thơ
Đã quyết xông pha nơi gió bụi
Dễ không ham muốn, khó không chừa
                               Bùi Kiểu

Bài xướng
Xuân Nhật cảm tác 1945

Chào xuân năm mới mấy vần thơ
Hổ với non sông cái sống thừa
Bốn chục mừng thêm sáu tuổi nữa
Trăm năm bẻ lại nửa phần lưa
Phúc nhà lan quế đã xanh tốt
Nợ nước mày râu luống hững hờ
Bỉ thái kê chi cơn gặp gỡ
Hẹn cùng đất nước có thời cơ
                               Hoàng Hữu Cảnh


(Ông Bùi Kiểu tham gia cách mạng  từ những ngày trước Cách mạng tháng 8/45. Làm trưởng phòng ở huyện Gio Linh, được tổ chức đưa vào hàng ngũ địch làm tình báo cho quân đôi ta. Bị lộ, địch giết)

Thơ hoạ 1

Năm nay, năm ngoái một bài thơ
Hay, dở chi chi nghĩ cũng thừa
Ba vạn sáu ngàn xuân, biết mấy
Sáu mươi hai tuổi, sức còn lưa
Nhớ ơn cha mẹ lòng lai láng
Vướng nợ non sông dạ hững hờ
Ngày lại tháng qua thời cuộc mới
Nay ai tiền định hỏi thiên cơ
            Trương Khắc Khoan

thơ Hoạ 2

Mới hồi nào đó, tuổi ngây thơ
Thấm thoát xuân thu bốn chục thừa
Tơ vướng trăm vòng, lòng chẳng rối
Tóc xen hai thứ, dại còn lưa
Cuộc đời sương tuyết chưa từng trải
Cái thói phong lưu khéo chực hờ
Nước giếng, ruộng nhà, ngày tháng rộng
Hành trang âu cũng phải tuỳ cơ

Trương Quang Phiên


Bài xướng
Làng Mai

Phong thuỷ làng Mai đẹp hữu tình
Lúa ngô xanh tốt nếp nhà xinh
Thành hoàng khai khẩn nơi thiên phú
Con cháu đắp bồi chốn địa linh
Quyết tử trừ Tây xây độc lập
Quên mình diệt Mỹ dựng văn minh
Hoà bình thống nhất dân giầu có
Xóm dưới thôn trên phúc, lộc, ninh
                               Trương Hữu Thảo

Bài hoạ 1
 Cảm nhận về làng Mai


Làng Mai đất thép nặng nhân tình
Biển cận, non kề cảnh sắc xinh
Khử bạo trừ nguy giàu khí phách
Diệt thù cứu nước sáng tâm linh
Dờu xưa năm tháng còn ghi tạc
Công tích bao đời đã chứng minh
ý Đảng, lòng dân chung một hướng
Lời thề son sắc vẫn đinh ninh

Nguyên Hồ – Hà Nội

Bài hoạ 2
Quê ta

Mai Xá - Gio Mai đẹp thắm tình
Hàng tre êm ả bóng xinh xinh
Tiêu ma hùm sói nơi nhân kiệt
Tan tác cú diều chốn địa linh
Cửa mở thênh thang làn gió mới
Trăm hoa đua nở ánh bình minh
Gio Linh toả sáng hồn non nước
Quảng Trị đất này mãi thọ ninh
Hoàng Tiến Hành
Tân Mai – Hoàng Mai – Hà Nội

Bài hoạ 3
Làng quê

Mai Xá làng quê đất nghĩa tình
Bao đời tạo lập dáng hiền xinh
Cỏ cây tươi tốt nhờ thần hiển
Chùa miếu khang trang bởi thánh linh
Trừ diệt xâm lăng tan bóng tối
Dựng xây cuộc sống rạng bình minh
Bà con làng xóm vui đoàn tụ
Cùng hưởng lộc trời phúc – thọ – ninh

Thang Ngọc Pho
Bán đảo Linh Đàm


Vịnh bảy họ làng mai
của cụ Hoàng Hữu Huy[1]

Mai Xá xưa rày tiếng ngũ Trương
Lê Bùi hai họ cũng hùng cường
Trương Quang ông Trợ, thơ trăm cuốn
Trương Khắc thầy đồ, lúa vạn lương
Trương Hữu vịt đàn, nhà phó Tạo
Trương Công bạc vạn tủ ông Cương
Trương Văn thầy Táo, lu đầy rượu
Thông thản lắm tiền, cá thập lương


Ba hạt giống đỏ

Ba mầu giống đỏ đầu tiên
Dân làng kính phục, quan trên kiêng dè
Sớm đem chủ nghĩa Mác – Lê Nin
Về làng gieo cấy, phủ phê lá cánh

Trương Khắc Trại

Chùm thơ Hồn quê

Dinh ông

     Dinh Ông dựng ở đầu làng
Ba bề nước biếc, một đàng lối vô
     Lùm cây che khuất kim ô !
Gió chiều nhẹ thổi, mặt hồ lung linh
     Vút cao hoa trụ xinh xinh
Giữa một bình phong tạc hình song voi
     Tiền đường câu đối sóng đôi
Hoành phi chính giữa, đời đời ghi công


Gò làng

          Gò làng một cảnh quê nhà
Cỏ kim dệt đệm, trăng ngà soi nghiêng
          Gối đầu rừng đước mờ sương
Gác chân gò nỗi, hàng dương rì rào
          Đò đêm khoát nước cây sào
Gió nồm dịu thổi, mây cao chín tầng
          Nằm nghiêng thấy bến không gần
Nằm ngửa trông thấy sông Ngân rõ ràng
          Ba bề mặt nước mênh mang
Lò nung vôi đứng mấy hàng chênh vênh
          Đêm về bầu bạn quây quần
Hồn thơ một thuở, tuổi xuân một thời

                                        Bùi Thế Tâm


Đất và nước làng Mai
(Trích trường ca của Trương Hữu Thảo)

       Mùa xuân nắng đẹp gió lành
Trăng rằm sáng tỏ, lúa xanh đồng làng
       Hôm nay pháo nổ từng tràng
Mừng ngày dựng lại đình làng thôn Mai
       Bảy trăm năm trước nhờ ai
Ba ngài sáng lập, ba ngài linh thiêng
       Trương, Lê, Bùi bậc thánh hiền
Thiên văn, địa lý chọn miền phì nhiêu
       Sông dài, đất rộng, ruộng nhiều
Phía Đông giáp biển, chợ chiều cá tươi
       Phía Tây một dãy cát “lòi”
Phù sa Thạch Hãn, tháng mười đầy kho
       Mùa đông Hà Côộc lắm cò
Lượn quanh làng mạc, thuyền đò ngược xuôi
       Ngô khoai đầy bãi bên Đuồi
Đồng Soi nổi tiếng gạo nuôi dân làng

Mọi nhà chưa phải giầu sang
Nhưng mà no đủ, đường hoàng dưới trên
       Tre xanh bao bọc vững bền
Xây thành chiến luỹ dưới trên, trong ngoài
       Mùa xuân đẹp hẳn mọi ngày
Lòi làng xanh mượt, hương bay mọi nhà
       Mai vàng trang điểm, gần xa
Lư hương cát trắng đậm đà làm sao
       Làng quê ven dải sông đào
Nối liền Tùng – Việt ra vào viếng thăm
       Chợ Mai đã mấy trăm năm
Ngô đồng rợp bóng, tiếng tăm một thời
       Cây dương trăm tuổi chọc trời
Đình làng to đẹp là nơi phụng thờ
       Giếng chùa mát lạnh thơm tho
Nước trong, mạch tốt, ấm no dân lành
       Giếng Lòi vị ngọt nổi danh
Mời nhau bát nước chè xanh ấm lòng…
  
Nhớ quê
       “Ru em, em théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu”
      Nhớ sao giọng mẹ ngọt ngào
Lời ru dìu dặt thấm vào đêm sâu.
      Nhớ thời còn nhỏ chăn trâu
Còn đâu lời chị, chợ Cỗu còn đây
      Nhớ Văn Miếu dưới rừng cây
Mái cong cổ kính, tường xây thật dày.
      Ôm cột lim nhớ những ngày
Đình làng tám cột vòng tay còn thừa
      Mồng mười tháng sáu ngày xưa
Nhớ làng vào hội sớm trưa ngoài đình
      Nhớ làng những buổi bình minh
Chợ Mai mua bán lượn quanh lắm hàng
      Nhớ năm giặc Pháp quây càn
Đầu bêu giữa chợ oán hờn tận mây
      Nhớ bao con gái, con trai
Quên mình ngã xuống có ngày hôm nay…

13 Tết Nhâm Ngọ
Trương Hữu Thảo


Quê tôi (Trích)

Ngày trước, quê tôi
Nhiều lúa khoai, tôm cá bốn mùa
Chợ làng đông đúc, nào bán nào mua
Nhộn nhịp bốn mùa, ngày mưa ngày nắng
Xóm làng đường ngang, ngõ thẳng
Luỹ tre xanh điểm hoa trắng, hoa màu
Nhà giàu không phải ít đâu
Ruộng đất bạc mầu, tàn phá chiến tranh
Lớp trẻ theo lớp đàn anh
Trai gái, trẻ già đồng thanh kháng chiến
Cả dân làng cùng chung trận tuyến
Sức của, sức người cống hiến non sông
Hừt chiến tranh còn lại số không
Phải vùng lên theo tập quán ông cha
Dỗu ở làng hay ở nơi xa
Là người làng Mai, chúng ta chung sức
Cả cấp trên cùng ta góp  nữa
Để làng Mai vượt đói, giảm nghèo
Để tiến lên làm giàu hơn trước
Có nên không? Hỡi các chị, các anh
                                        Lê Văn Kế


Trên sông nhớ người em gái (Trích)
Trường Linh – Mai Quang Trí

Đò xuống Đông Hà
Nhìn trời bao la
Nhìn sông xanh biếc
Lòng bâng khuâng bồi hồi, da diết…
Nhớ thương ai? Dưới bến trên bờ…
Cây đa, bến cũ, chiếc đò xưa
Nay nhìn lại vẫn còn trong ký ức…
Đây Hói Sòng, mấy mươi  năm về trước
Đò vô ra, neo đợi nước lên phiên
Trai khôn lại gặp gái hiền
Nơi bến hẹn ghe thuyền tứ xứ
Khúc hát giao duyên câu hò tình tự
Nhẹ mái chèo khi nước lớn trăng lên…
Còn đây ngã ba đại Độ, gió lặng sóng êm…
Và trên ấy ghe thuyền xuôi ngược
Sóng đôi bờ nhấp nhô mặt nước
Như vẫy chào người viễn xứ về quê…
Ai nhớ thương ai, không trọn câu thề

Trên sông nước nghẹn ngào nức nở
Phải chăng là hồn em đâu đó
Đã theo anh trong gió, trong mây
Đến ngã ba bến nước sông này
Như hiển  hiện chập chờn…bên khoang lái…
Nho nhỏ bên tai…ngập ngừng, ái ngại
Với người xưa chưa trút cạn nỗi sầu
Vờn vương hoài, nghĩa nặng ơn sâu
Chưa một chút ơn đền, nghĩa trả
Trên dòng sông âm dương đôi ngả
Viết mấy lời từ tạ nương nương
Đá nát, vàng phai, cách biệt đôi đường
Lòng canh cánh nhớ thương tình cũ
Trăm đắng nghìn cay sang trang tình sử
Thôi thì thôi
Duyên nợ hết rồi!
Hãy tha thứ cho nhau!

(Rút trong tập  "Mấy dòng tản mạn về thơ"
Tô Khuyến sưu tầm)


Gửi chồng tập kết miền bắc
(Trích)

Đêm nay em nằm không ngủ
Cứ lấy mấy lời nhắn nhủ của anh
Em ở nhà gìn giữ lều tranh .
Nuôi con dại, mẹ già cho trọn đạo
Rồi mai đây chắc lắm cơn giông bão
Em ở nhà giữ trọn đạo phu thê
Em ở nhà nhiệm vụ nặng nề
Khi đau ốm anh không thể về săn sóc
Nào là con đau, mẹ già trằn trọc
Một mình em khó nhọc biết bao.

Chúng cho em là gia đình Việt Cộng
Bắt buộc phải từ bỏ mối tình thương
Mặc cho thịt nát tan xương.
Em vẫn nguyện vàng phai đá nát
Dù trăm năm em vẫn giữ quyết một lòng
Mặc kệ ai miệng chuột, hàm dơi
Em tiết hạnh cho trọn tình yêu chung thủy.
Ngày mai thống nhất hai miền
Chữ tình còn đậm mối duyên còn nồng.
Hai ta chỉ quyết một lòng
Non sông thống nhất ước mong đợi chờ./.

Trương Hữu Đạc (sưu tầm)

II. Những bài báo viết về làng Mai

TT
Năm
Nội dung
Người viết
Tên báo
Ca tụng làng Mai

    Xuân Làng Mai
Hồi ký Phù sa ánh sáng
Y Thi
Cửa Việt 2007
Viên Tướng Mỹ với con rùa làng Mai
Đinh Như Hoan
Nhân dân
Xuân Bính Tuất
Bút ký Bà mẹ Gio Linh – mẹ anh hùng
Nguyễn Hoan
Quảng Trị
5.              28/3/2007
Luật bảo vệ cò của một làng hiếu học
Vũ Phương Thảo
Thanh Niên
6                9/2004
Chuyện học trò nghèo Quảng Trị
 Tuổi trẻ
7                28/11/1995
Một nạn nhân của chiến tranh
Lê Bình Thạnh
Tiền phong
8                20/11/2004
Gia đình “Học Hiệu Tiên Việt” của thầy Trương Quang Phiên
Y Thi
Quảng Trị cuối tuần
9
2003
Làng Mai – Gio Linh – Quảng Trị
Nhiều tác giả
Biên tập
GS –TS
Bùi Thế Vĩnh
10. Lê Quốc Phong
Kỷ yếu người Quảng Trị ở TP Hồ Chí Minh
11.                 1948
Bài hát “Bà mẹ Gio Linh”
Nhạc sĩ Phạm Duy
10. Làng mai trong thời kỳ đổi mới

- Ổn định về chính trị, văn hoá, xã hội:
Trong   những năm đất nước bước vào đổi mới, làng Mai Xá Chánh đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Đời sống nhân dân được nâng cao, các tổ chức chính trị, đoàn thể hoạt động tốt. Bí thư chi bộ, trưởng làng, các trưởng tộc đều có đạo đức tốt, đổi mới về tư tưởng, về tổ chức, quan tâm đến đời sống của nhân dân, của các họ tộc, cả về vật chất và tinh thần, tâm linh… Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác Đảng, chính quyền tiếp tục được củng cố, giữ được danh hiệu tổ chức trong sạch, vững mạnh. Mọi người đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá, bài trừ các hủ tục, các tệ nạn xã hội.
  Trường học các bậc: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở ngày càng đựơc  trên quan tâm đầu tư, mở rộng nâng cấp, tạo điều kiện cho các thầy, cô giáo dạy tốt, học sinh học tốt. Trường THCS được tỉnh công nhận nhà trường đạt tiêu chuẩn quốc gia. Tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt nghiệp cao. Nhiều em được vào trường PTTH, nhiều em đạt giải nhất, nhì học sinh giỏi toàn tỉnh. Một số em thi đại học đạt điểm cao, có em đỗ thủ khoa. Năm nào cũng có em vào đại học, có năm gần 10 em vào Đại học, Cao đẳng.
  Trạm y tế xây dựng khang trang, đủ điều kiện cho dân làng đến khám chữa bệnh.
2. Nhà cửa, giao thông thuỷ lợi, điện nước được nâng cấp
  Cơ sở vật chất ngày được cải thiện. Mọi người dân đều có nhà ở chắc chắn, 100% số hộ được dùng điện, có ti vi, xe máy, điện thoại.
  Giao thông thuận lợi, làng nằm hai bên đường Xuyên á,  trung điểm đoạn Quốc lộ 1ê về Cửa Việt. Việc đi lại của nhân dân lên Đông Hà, xuống Cửa Việt bằng ô tô, xe máy, xe đạp, …rất thuận tiện và nhanh  chóng .
Đường liên xã đi Gio Thành, Gio Quang qua làng. Đường Kiệt và một số trục đường giao thông trong làng cũng được nâng cấp và bê tông hóa nên việc đi lại trong làng rất thuận lợi.
  Hệ thống đê chắn mặn, hệ thống thuỷ lợi sông Cánh Hòm, hệ thống thuỷ nông trúc Kinh đã phát huy tác dụng. Đồng ruộng luôn đủ nước, việc cấy cày, trồng trọt của nông dân rất thuận lợi cho sản xuất hai vụ, sản lượng cao. Phần lớn dân làng tự túc được lương thực. Một số gia đình nhiều lao động và phương tiện sản xuất thì thóc lúa dư thừa. Dân làng không thiếu đói, phải ăn sắn, khoai như ngày xưa. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh .
3. Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản và các ngành nghề khác.
a. Chăn nuôi và đánh bắt thủy hải sản.
Làng Mai ở hạ lưu của 2 dòng sông lớn có nhiều vùng trũng ngập mặn. Dân làng đã nạo vét, san ủi làm hồ nuôi tôm, cua, cá. Hai khu vực lớn là: Vùng Quéng – Bơi Bơi ở đồng Kênh và vùng đầm Lẹc Dài ở cánh đồng Soi. Trước đây có nhiều hộ nuôi tôm rất khấm khá, nhưng hiện nay do không khống chế được dịch bệnh, lại đầu tư nhỏ lẻ nên phần lớn bị thua lỗ.
Mờy trăm ngư dân xóm Kênh nhờ có tàu bè, lưới chài đầy đủ nên sản lượng đánh bắt hải sản ngày một cao.
b. Một số ngành nghề khác:
Hiện nay làng có thành lập một tổ cào chắt chắt, đời sống tổ viên được cải thiện. Giá trị ẩm thực của chắt chắt rất cao, chế biến được thành thức ăn ngon. Chắt chắt xào ăn với bánh đa là đặc sản của vùng  Quảng Trị.
Ngoài ra ngành thợ mộc, thợ xây, sửa chữa nhỏ cũng phát triển, phục vụ tốt cho nhân dân trong làng.
Làng Mai Xá Chánh có nhiều sông ngòi ,trên bến dưới thuyền, đường giao thông thuận tiện, gần cảng, gần khu du lịch Cửa Việt, gần thành phố Đông Hà, có vườn cò Hà - Côộc. Nừu Nhà nước hoặc có một đơn vị nào đầu tư thành khu du lịch sinh thái, làm trang trại chăn nuôi, trồng cây ăn quả… thì cảnh quan của làng Mai hẳn sẽ càng đẹp và sầm uất, đời sống của nhân dân được nâng cao, đời sống văn hóa, tinh thần sẽ ngày một văn minh hơn.


[1] Cụ Hoàng Hữu Huy, người Bích Khê có nhiều quan hệ sâu sắc với làng Mai Xá, mới vinh được 7 họ, còn các họ khác chưa có bài thì cụ đã qua đời.

Không có nhận xét nào: